Mỗi dịp vào đầu năm học, trong khi trẻ em ở đồng bằng hay thành phố được bố mẹ, ông bà lo sắm sanh sách vở, bút mực, quần áo mới, thì ở các bản làng vùng sâu, vùng xa, nhiều em nhỏ vẫn còn phải quăng quật mưu sinh.
“Cõng” ước mơ vượt núi
Mỗi buổi sáng, Sùng Thị Chua, lớp 2, ở Điểm trường Huổi Chạ (xã Nậm Vì, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên) lại cùng các bạn đồng lứa hăm hở cắp sách đến trường. Điểm khác biệt giữa Chua và các bạn xung quanh, là trên lưng Chua còn địu thêm một đứa em nhỏ. Cứ thế, ngày lại ngày khi chị Chua chăm chú tập đọc, tập viết theo cô giáo thì đứa em say sưa ngủ trên lưng. Và, điều kỳ lạ là không biết đứa trẻ đã hiểu được sự vất vả của chị hay đã quen với không khí lớp học mà khi ngủ dậy nó không hề quấy khóc mà cứ tròn xoe mắt nhìn các anh, chị trong lớp học đánh vần.
“Những thiên thần” ở Huổi Chạ
Hoàn cảnh của Chua khá đặc biệt, bố mẹ em đã bỏ nhau, tất cả anh, chị em Chua đang sống với mẹ. Nhà nghèo, hàng ngày mẹ và anh, chị đi làm nương để kiếm cái ăn, Chua phải lãnh tránh nhiệm chăm sóc đứa em nhỏ. Lúc đầu khi giáo viên đến gia đình vận động cho em đi học, mẹ Chua nói “nó phải ở nhà trông em!”. Giải thích, vận động mãi không được, cuối cùng cô giáo phải “thương lượng” với mẹ Chua và Chua đã được đến lớp học nhưng phải địu cả em theo.
Bù lại, Sùng Thị Chua rất chăm chỉ đến lớp. Trong khi nhiều em khác sau ngày nghỉ cuối tuần là thứ hai cũng… nghỉ luôn, các cô giáo phải đến tận nhà để đón đi học, còn Chua luôn tự giác trở lại trường. Cùng hoàn cảnh bố mẹ bỏ nhau như Chua là Thò A Xạ, học sinh lớp 3. Hàng ngày Xạ cũng dắt theo một đứa em lên lớp học. Nhà Xạ nghèo, nằm chênh vênh vách núi. Ngay từ khi mới hơn 4 tuổi, Xạ đã phải tự lo cho bản thân và chăm sóc cho em để bố mẹ rảnh rang vào rừng kiếm rau, chặt măng; lên nương trồng ngô, tra đỗ, lo cái ăn cho cả nhà.
Lên 7 tuổi, may mắn hơn nhiều bạn cùng lứa, Xạ được đi học. Nhưng nhiệm vụ trông em, Xạ vẫn phải đảm đương. Vậy là cứ mỗi sáng, Xạ lại cõng em đến lớp. Khi Xạ ngồi học thì cô em gái tha thẩn chơi ngoài sân. Trời quang mây tạnh còn đỡ, chứ những khi mưa gió, hành trình đến lớp của hai anh em Xạ vất vả vô cùng. Người ướt rượt, tóc tai, quần áo lấm lem bùn đất. Nhiều lúc cô giáo phải cho lớp tạm nghỉ giải lao để tắm rửa, thay quần áo cho anh em Xạ.
Các thầy cô ở Huổi Chạ bảo, ở vùng cao, đời sống của bà con các dân tộc còn nghèo khó, thiếu thốn, phần lớn các phụ huynh trước đây không được đi học đến nơi đến chốn nên nhận thức của họ hạn chế là điều tất yếu. Bây giờ nội một việc lo kiếm cái ăn cho gia đình khỏi đói đã chiếm hết cả thời gian và suy nghĩ của họ nên một bộ phận thờ ơ, không quan tâm đến việc học tập của con em mình cũng là điều không khó hiểu. Bên cạnh đó, phần lớn phụ huynh khi đã cho con em mình đi học thì những vấn đề còn lại như chăm sóc, bảo ban, dạy dỗ đều “bàn giao” luôn cho thầy, cô giáo. Nghèo khó nên nhiều em đến lớp học với bộ áo quần rách vá, chân đất, mùa rét không có áo ấm; bậc mầm non còn có cả trường hợp trẻ em cởi truồng đến lớp. Còn việc thầy, cô giáo tích trữ bánh, kẹo để dỗ học sinh đến lớp là chuyện thường ngày ở các xã vùng cao.
“Học sinh miền núi phần lớn là con em hộ nghèo, lớp tôi chủ nhiệm có 16 học sinh thì đã 13 em thuộc hộ nghèo. Có những giai đoạn 3-4 em phải chung nhau một quyển sách giáo khoa; bút mực, sách vở, quần áo thiếu thốn, mùa đông giá rét có em chỉ có manh áo mỏng tới lớp… đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của các em”, cô Hương chia sẻ.
Trong khi những học trò thành phố, học lớp 3, lớp 4 vẫn thường được bố mẹ đưa đón đến trường, thì phần lớn những em học sinh vùng cao phải tự lập từ rất sớm. Có khi mới 7 – 8 tuổi các em học dân tộc nội trú hoặc bán trú dân nuôi đã phải tự nhóm lửa, thổi cơm, gùi nước về sinh hoạt, tắm giặt và học cách chăm sóc nhau khi ốm. Nồi cơm tập thể có khi khê, lúc lại nhão, thức ăn thường chỉ có canh rau rừng, muối trắng, hôm nào sang thì có cá khô, nhưng khi đã túm tụm nhau lại, đứa cầm thìa, đứa bốc cơm thì bữa ăn trở thành vui vẻ, đầm ấm lắm. Sau mỗi đợt nghỉ cuối tuần, em nào cũng tay xách nách mang rau gạo từ nhà đủ dùng cho tuần kế tiếp.
Bỏ học để… lấy chồng!
Một giáo viên miền xuôi đời sống vốn đã khó khăn nhưng có lẽ chẳng thấm vào đâu so những vất vả mà các giáo viên vùng cao, vùng hải đảo đang trải qua. Không chỉ công tác trên địa bàn mới, xa nhà, xa gia đình, mà ở nhiều nơi, họ vừa dạy trẻ em tiếng Việt lại vừa phải học tiếng của bà con địa phương; làm tốt công tác vận động bà con dựng trường, đưa trẻ đến trường. Họ cũng luôn phải tìm tòi phương pháp dạy học hiệu quả hơn, phù hợp hơn với đặc điểm của học sinh vùng cao.
Hai chị em Chua
Cô Huyền, giáo viên chủ nhiệm của Xạ bảo, trong những khó khăn mà các giáo viên vùng cao thường xuyên phải đối mặt như cơ sở vật chất thiếu thốn, bất đồng ngôn ngữ, khác biệt về phong tục tập quán, thì việc vận động học sinh đến lớp và “giữ” được các em không bỏ lớp là vất vả nhất. Vì đói nghèo, vì xa xôi cách trở, vì phải ở nhà trông em..., có trăm ngàn lý do để những đứa trẻ Mông, Dao Tày, Thái từ chối hoặc chểnh mảng chuyện học hành.
Đó là chưa kể, cứ mỗi khi mùa vụ đến, học sinh thường ở nhà lên rẫy và không trở lại trường nữa. Bởi, nhiều người vẫn nhận thức rằng: “Chúng tôi không biết chữ, trồng cây ngô nó cũng mọc, cần gì phải đi học, để nó ở nhà giúp bố mẹ thôi…”, hoặc: “Con gái chỉ cần biết thêu thùa, dệt vải, biết ủ ngô nấu rượu là tốt rồi. Học cái chữ cũng có no cái bụng được đâu?!”. Lối tư duy ấy, đã và đang đè nặng trên núi cao.
Bên cạnh đó, nạn tảo hôn cũng góp một phần làm suy giảm sĩ số của các lớp học vùng cao. Cá biệt có những em mới đang học lớp 7, lớp 8 đã nhất nhất đòi nghỉ để lấy chồng. Thầy cô lại phải băng rừng vượt suối đi vận động các gia đình không dựng vợ gả chồng cho con sớm. Tuy nhiên, việc vận động của các thầy cô giáo không phải lúc nào cũng thành công, như trường hợp của em Sùng Thị Bia, nhà ở bản Huổi Chạ 1, xã Nậm Vì.
Cuối năm học lớp 8, Bia “phải lòng” một bạn lớp trên là Sùng A Tẩn. Và, với sự mộc mạc, hồn nhiên nhất của dân tộc mình, cô cậu học trò này nghĩ việc thích nhau, cưới nhau chẳng liên quan gì đến… việc học cả! Khi thầy cô giáo phát hiện thì “chuyện đã rồi”, đành để hai gia đình tổ chức đám cưới cho 2 đứa trẻ. Lúc đó, Bia vừa bước sang tuổi 17 và mới học được nửa học kỳ của năm lớp 9.
Mỗi khi Xạ vào lớp học thì cô em gái chơi tha thẩn ngoài sân
Với những thiếu nữ dân tộc, lấy chồng có nghĩa là yên phận làm dâu, sinh con, làm lụng phụng sự nhà chồng, thế nên chuyện động viên cặp “vợ chồng mũi dãi” Tẩn – Bia quay lại học tiếp còn “khó hơn cả leo hàng trăm ngọn núi”. Đó là chưa kể đến chuyện sinh con đẻ cái, rồi miếng cơm manh áo ghì sát đất, cuộc sống của những đôi vợ chồng trẻ như thế này rất khó để thoát ra khỏi cảnh đói nghèo, tăm tối.
Ở vùng đất biên viễn này, không chỉ riêng mình Bia lâm vào cảnh khốn cùng vì trót mang gánh nặng mưu sinh từ quá sớm, mà mẹ Bia, bà ngoại, bà cố ngoại Bia cũng đều như vậy. Trong số họ, không ai biết được chính xác phong tục lấy vợ, lấy chồng sớm có tự bao giờ. Đồng thời, họ cũng không hề biết Luật Hôn nhân - gia đình ra sao, kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản, nuôi dưỡng trẻ sơ sinh, kế hoạch hóa gia đình thế nào, bởi tập tục tảo hôn đã ăn sâu trong suy nghĩ của đồng bào đã quá lâu rồi. Thế nên, cứ đời nọ nối đời kia, con gái bản Mông mới thấc lên, chưa kịp làm dáng trước ánh mắt đàn ông đã vội vàng làm vợ.
Để hạn chế tình trạng học sinh bỏ học và cũng để cố gắng hạn chế nạn tảo hôn, trong nhiều năm qua, chính quyền, đoàn thể ở Mường Nhé đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, nhưng hủ tục này thi thảng vẫn xảy ra, nhất là ở một số bản làng vùng sâu, vùng xa. Và vì thế công cuộc “gieo chữ, trồng người” trên núi cao vẫn còn lắm chông chênh.