BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có sự thay đổi tiến bộ, toàn diện, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp, là bước tiến lớn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành một số Sắc lệnh về tổ chức lại bộ máy tư pháp như Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về tổ chức Tòa án, Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư.
Đây chính là những văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho việc ghi nhận, bảo đảm về quyền bào chữa của bị cáo. Điều 5 Sắc lệnh số 33C quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho mình”. Điều thứ 2 của Sắc lệnh 46 quy định: “Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các toà án hàng tỉnh trở lên và trước các toà án quân sự”. Sau đó, quyền bào chữa đã được ghi nhận trong Điều 67, Chương 6 “Cơ quan tư pháp”, Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa như sau: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn lấy luật sư”.
Việc sớm ghi nhận về quyền bào chữa của bị cáo thể hiện tính nhân đạo, dân chủ của Nhà nước ta, tuy nhiên do tình hình lúc bấy giờ hai miền Nam Bắc chưa thống nhất nên số lượng luật sư rất ít dẫn đến việc thực thi và bảo đảm quyền bào chữa lúc bấy giờ chưa thật sự hiệu quả. Và việc thực thi quyền bào chữa của bị cáo chỉ mới dừng lại ở việc bào chữa tại phiên tòa xét xử chứ không phải trong mọi giai đoạn tố tụng hình sự và chỉ áp dụng đối với chủ thể là bị cáo.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo tiếp tục được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959 tại Điều 101, Chương 8 “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”: “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”, Hiến pháp năm 1980 tại Điều 133, Chương 10 “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và đương sự khác về mặt pháp lý”. Bên cạnh việc quy định về quyền bào chữa của bị cáo tại Điều 133, Hiến pháp năm 1980 cũng lần đầu đưa ra cơ sở pháp lý cho việc xây dựng một văn bản pháp luật về tổ chức luật sư ở Việt Nam để góp phần bảo đảm thực thi quyền bào chữa của bị cáo trên thực tế.
Quyền bào chữa sau đó được chính thức thể chế hóa lần đầu tiên trong BLTTHS sự năm 1989 - BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989, đã ghi nhận như sau: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa”, Điều 12. Quy định về việc bảo đảm quyền bào chữa trong BLTTHS rộng hơn so với Hiến pháp năm 1980 ở chỗ áp dụng đối với bị can kể từ khi có Quyết định khởi tố bị can, chứ không chỉ dừng ở việc bảo đảm quyền bào chữa trong phiên tòa xét xử.
Tuy nhiên, tới Hiến pháp năm 1992 cũng chỉ tiếp tục ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo tại Điều 132, Chương 10 “Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân”: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”. Từ các căn cứ nêu trên có thể thấy quy định về quyền bào chữa trong các bản Hiến pháp còn khá hạn chế về chủ thể áp dụng là bị cáo, và cách thức quy định quyền cũng thể hiện rõ việc chưa chú trọng bảo đảm quyền này của công dân, cụ thể là quyền bào chữa được ghi nhận chung chung trong chương quy định về TAND và VKSND trong quá trình xét xử tại phiên tòa, chưa có cơ chế bảo đảm thực thi quyền trên thực tế.
Về BLTTHS sau các lần sửa đổi, bổ sung (tháng 6/1990, tháng 12/1990, tháng 6/2000) vẫn quy định quyền bào chữa chỉ bảo đảm cho bị can, bị cáo.
Góp phần vào công cuộc thúc đẩy xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp bằng việc ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị quy định về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” trong đó có đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm về việc “bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa”; “việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa”.
Đáp ứng yêu cầu trên, ngày 26/11/2003, BLTTHS năm 2003 chính thức được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Trong lần sửa đổi này, BLTTHS đã mở rộng quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tại Điều 11. Việc bổ sung quyền này của người bị tạm giữ xuất phát từ quan điểm họ là người tình nghi thực hiện tội phạm nên cần thiết phải có quyền bào chữa để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Theo đó, có thể thấy giữa Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự đang có một khoảng cách nhất định trong việc quy định về quyền bào chữa. Và việc quy định này tại các văn bản pháp lý ở nước ta còn khá hạn chế so với văn kiện quốc tế về bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bào chữa nói riêng.
Ngày 02/6/2005, Ban chấp hành TW Đảng ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Văn kiện này đã tổng kết lại các kết quả đã đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW và tiếp tục đưa ra các nhiệm vụ cải cách tư pháp trong tình hình mới, không ngừng chú trọng đến việc bảo đảm và thực thi quyền bào chữa của công dân thể hiện tại các nhiệm vụ “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”; “ hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa”.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết TW Đảng và khắc phục các bất cập, tồn đọng, Hiến pháp năm 2013 ra đời chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 đã có những sự thay đổi tiến bộ, phù hợp với tình hình mới và pháp luật quốc tế, là tiền đề cho việc ban hành các văn bản pháp luật mới, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật không còn phù hợp.
Lần đầu tiên quyền bào chữa được ghi nhận minh thị là một trong số các quyền công dân, quyền con người, cụ thể tại khoản 4, Điều 31, Chương II về Quyền con người, quyền cơ bản của công dân: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Theo đó, Hiến pháp đã mở rộng về chủ thể có quyền bào chữa bao gồm người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thời điểm được bào chữa bao gồm cả giai đoạn tiền xét xử cũng như về cách thức bảo đảm thực thi quyền bào chữa là tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Nhằm bảo đảm thực thi quyền bào chữa, Hiến pháp cũng chính thức ghi nhận về nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử tại khoản 5, Điều 103.
Thể chế hóa tinh thần Hiến pháp năm 2013 về quyền bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã có một số quy định cụ thể sau:
Thứ nhất, về đặc điểm quyền bào chữa so với BLTTHS trước đây: Một là về chủ thể: Điều 16 BLTTHS năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội như sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Theo đó, Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điểm đ, khoản 1, Điều 4 BLTTHS).
Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cũng có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (điểm g khoản 1 Điều 58 BLTTHS).
Về thời điểm: Quyền bào chữa xuất hiện từ khi người bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, có quyết định tạm giữ hoặc từ khi khởi tố bị can. Quyền bào chữa kết thúc khi vụ án được xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật hoặc khi vụ án bị đình chỉ.
Thứ hai, cách thức bảo đảm thực thi quyền bào chữa có những thay đổi phù hợp, giúp bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội:
Một là, chính thức quy định về nguyên tắc tranh tụng: Điều 26 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Như vậy, đã khẳng định quá trình tranh tụng không chỉ tồn tại ở giai đoạn xét xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên: buộc tội, gỡ tội và xét xử mà còn diễn ra trong suốt quá trình tố tụng từ giai đoạn khởi tố đến xét xử, tạo điều kiện cho các bên có thời gian cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa. Đây là quy định mới, căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền con người, quyền công dân như Hiến định.
Hai là, mở rộng diện người bào chữa gồm cả Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa miễn phí cho những đối tượng thuộc diện chính sách: Khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa: “Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý”. Quy định mở rộng diện người bào chữa không chỉ nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn hiện nay, khi đa phần trợ giúp viên pháp lý đều không có thẻ luật sư nên khó khăn trong việc tiếp cận và bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội.
Ba là, mở rộng các trường hợp bắt buộc cơ quan tố tụng chỉ định người bào chữa: Ngoài các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa là bị can, bị cáo phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình; bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất, tinh thần thì Điều 76 BLTTHS năm 2015 còn mở rộng thêm đối tượng là bị can, bị cáo phạm tội có mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân cũng thuộc diện bắt buộc phải có người bào chữa.
Bốn là, lần đầu tiên quy định bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa: Điểm i khoản 2 Điều 60 BLTTHS năm 2015 quy định, bị can có quyền “i) Đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu”.
Phạm vi tài liệu bị can được đọc là các tài liệu có liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội. Ví dụ như: lời khai, bản cung, biên bản định giá để xác định giá trị tài sản trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội trộm cắp tài sản; lời khai, bản cung, kết luận giám định thương tích trong trường hợp bị can bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích,…
Thời điểm được đọc tài liệu là kể từ sau khi kết thúc điều tra. Để được đọc tài liệu, bị can phải thể hiện yêu cầu của mình.
Phương pháp, cách thức để đọc tài liệu là đọc trên bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa. Quy định như vậy nhằm vừa bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, vừa bảo đảm an toàn, tránh trường hợp bị can cố ý hủy hoại tài liệu gốc.
Năm là, bổ sung thêm một số quyền của người bị buộc tội: Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo: (1) Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Có quyền tự do trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (4) Được nhận bản bào chữa của người bào chữa; (5) Đề nghị thay đổi người dịch thuật; (6) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý.
Cuối cùng là thay thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa: Điều 78 BLTTHS năm 2015 đã thay tên gọi “cấp Giấy chứng nhận bào chữa” thành cấp “Thông báo đăng ký bào chữa”; đồng thời đơn giản thủ tục, rút ngắn thời gian cấp giấy xác nhận tư cách tham gia tố tụng của người bào chữa theo hướng: Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi có đề nghị của người bào chữa và họ xuất trình đủ giấy tờ và đủ điều kiện để tham gia bào chữa thì Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được phân công thụ lý chính đối với vụ án phải cấp Thông báo đăng ký người bào chữa cho họ. Văn bản thông báo về việc đăng ký bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng (Điều 6, Thông tư 46/2019/TT-BCA).
Như vậy, có thể thấy BLTTHS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có sự thay đổi tiến bộ, toàn diện, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự, góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp, là bước tiến lớn trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, có thể thấy quyền bào chữa từ khi xuất hiện luôn luôn gắn chặt với hoạt động nghề nghiệp của Luật sư. Điều này thể hiện rõ tại BLTTHS năm 2015 khi dành một chương riêng quy định về Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Chương V).
Qua đó cho thấy, vị thế của luật sư ngày càng được nâng cao, đưa giới luật sư lên một tầm cao mới đầy ý nghĩa trong việc góp phần bảo đảm thực thi quyền bào chữa của công dân, giúp khẳng định vị thế về nghề Luật sư là một nghề cao quý trong xã hội, góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; góp phần phát triển kinh tế - xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.