Cuối tháng 3/2022, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 08/QĐ-TTg về hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Theo đó, hai đối tượng được nhận hỗ trợ là người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp và người lao động quay trở lại thị trường lao động, với mức lần lượt 500.000 đồng/người/tháng và 1.000.000 đồng/người/tháng. Kinh phí hỗ trợ là 6.600 tỷ đồng.
Trong báo cáo gửi Chính phủ về việc đề xuất phương án xử lý kinh phí còn lại của chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị trả lại hơn 2.800 tỷ đồng về ngân sách trung ương kinh phí còn lại của gói hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, do không giải ngân hết…
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cho biết, theo báo cáo của 60 tỉnh, thành phố ( 3 tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Điện Biên không có đối tượng hỗ trợ), đến nay đã hoàn thành chi trả hỗ trợ cho gần 5,2 triệu lượt người lao động với hơn 3.759 tỷ đồng. Trong đó, hỗ trợ người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp hơn 3.219 tỷ đồng; hỗ trợ người lao động quay trở lại thị trường lao động hơn 539,8 tỷ đồng. So với số kinh phí dự kiến 6.600 tỷ đồng thì sẽ còn dư khoảng 2.800 tỷ đồng.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đánh giá, thị trường lao động hiện nay cơ bản ổn định. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã bố trí nguồn lực lớn để triển khai thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các chương trình trọng điểm về giáo dục nghề nghiệp, lao động, việc làm, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường lao động, tạo việc làm bền vững. Vì vậy, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất kết thúc chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động, số kinh phí còn dư chuyển lại ngân sách trung ương để thực hiện các nhiệm vụ cấp bách khác của Nhà nước.
Nhìn chung, chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động đã bao phủ được hầu hết người lao động có quan hệ lao động đang ở thuê, ở trọ trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu vực kinh tế trọng điểm (số đối tượng được hỗ trợ bằng 71,8% số dự kiến ban đầu). Qua đó góp phần phục hồi nhanh thị trường lao động, không để xảy ra tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng lao động.
Không thể phủ nhận tác dụng của chính sách hỗ trợ đối với người lao động. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận những hạn chế dẫn tới con số 2.800 tỷ đồng trả lại ngân sách. Ngoài nguyên nhân khách quan, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng thừa nhận, dự toán kinh phí chưa sát thực tế, số kinh phí thực hiện hỗ trợ chỉ bằng 57,24% so với tổng kinh phí đề nghị ban đầu. Việc triển khai thực hiện thời gian đầu chưa kịp thời, đầy đủ dẫn đến việc lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động chậm. Việc thẩm định hồ sơ, phê duyệt và giải ngân kinh phí cho người lao động thời gian đầu còn chậm, trong khi lực lượng cán bộ tiếp nhận và thẩm định hồ sơ không đủ.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng cho rằng, dù trình tự, thủ tục thực hiện đã được đơn giản hóa, nhưng nhiều cán bộ, công chức tiếp nhận, thẩm định hồ sơ lo ngại, sợ sai, sợ trách nhiệm trong việc triển khai chính sách, đã yêu cầu cung cấp các giấy tờ bổ sung để chứng minh về tình trạng ở thuê, ở trọ. Từ đó, kéo dài thời gian thẩm định hồ sơ để xác minh tình trạng cư trú của người lao động.
Năm 2021, khi xây dựng chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, tình hình dịch bệnh đang phức tạp, ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tình hình lao động việc làm của người lao động; doanh nghiệp thiếu hụt lao động do lao động di chuyển về quê. Do đó các địa phương báo cáo nhu cầu số lượng lao động và dự kiến kinh phí hỗ trợ cao hơn thực tế.
Bên cạnh đó, việc bố trí, sử dụng kinh phí để triển khai thực hiện chính sách chậm ở một số nơi, có nơi phải đợi thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh, nên kinh phí hỗ trợ không kịp thời đến được với người lao động.
Việc nhìn nhận một cách nghiêm túc về các nguyên nhân nói trên, cũng là để rút ra bài học kinh nghiệm cho việc triển khai, thực hiện các chương trình, chính sách sau này, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Đặc biệt phải khắc phục tình trạng cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ.