Ngày 26 và 27/12/2016, tại Hà Nội, TANDTC phối hợp với Văn phòng Dự án JICA tổ chức Tọa đàm tìm hiểu về hệ thống án lệ của Nhật Bản.
Ngày 26 và 27/12/2016, tại Hà Nội, TANDTC phối hợp với Văn phòng Dự án JICA tổ chức Tọa đàm tìm hiểu về hệ thống án lệ của Nhật Bản. Các chuyên gia pháp lý Nhật Bản đã giới thiệu tổng quan về chế định án lệ của Nhật Bản, cách thức hoàn thiện một bản án để trở thành án lệ và đề xuất một vấn đề để hoàn thiện chế định án lệ của Việt Nam.
Buổi tọa đàm có sự tham gia của Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Thúy Hiền; nguyên Phó Chánh án TANDTC Đặng Quang Phương; Giáo sư Murakami Keiichi, nguyên Thẩm phán cao cấp điều hành Tòa án cấp cao Tokyo; ông Kawanishi, Cố vấn trưởng Dự án JICA; ông Sakai Naoki, Thẩm phán, chuyên gia Nhật Bản; đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc TANDTC và TAND địa phương…
Án lệ của Tòa án tối cao Nhật Bản
Giáo sư Murakami Keiichi giới thiệu tổng quan về chế định án lệ của Nhật Bản. Theo đó, án lệ của Tòa án tối cao Nhật Bản được lựa chọn dựa trên quyết định của Ủy ban án lệ (theo Quy chế Ủy ban án lệ tháng 9/1947) bao gồm nội dung quyết định, trích yếu án lệ, điều khoản tham chiếu ghi kèm. Ủy ban án lệ được quy định là một tập thể có ít hơn 7 Thẩm phán Tòa án tối cao là ủy viên, có Ban thư ký gồm Thẩm tra viên và nhân viên Tổng cục Hành chính thuộc Tòa án. Các Thẩm tra viên phụ trách các vụ việc có bản án, quyết định dự kiến đề xuất phát triển thành án lệ sẽ biên soạn nội dung quyết định, trích yếu án lệ và điều khoản tham chiếu. Các đề xuất liên quan đến vụ việc dân sự, hành chính sẽ được đưa ra nghiên cứu nội bộ trong ban phụ trách dân sự, hành chính; vụ việc hình sự sẽ được nghiên cứu nội bộ trong ban phụ trách hình sự sau đó tổng kết lại. Như vậy, án lệ tại Nhật Bản là bản án, quyết định đã được tuyển chọn một cách khách quan và có tính chuyên môn cao thông qua một tổ chức phản ánh ý chí của tập thể Tòa án.
Về tiêu chuẩn lựa chọn án lệ, đó phải là những vấn đề quan trọng liên quan đến Hiến pháp, pháp luật chưa có tiền lệ ở Tòa án tối cao; án lệ đã có từ thời Đại thẩm viện (tên gọi cũ của Tòa án tối cao Nhật Bản giai đoạn 1875-1947) nhưng là quyết định xuất hiện lần đầu trong Tòa án tối cao; bản án, quyết định của Đại hội đồng xét xử (Đại pháp đình) làm thay đổi tiền lệ của Tòa án tối cao. Ngoài ra, trường hợp tình tiết vụ việc đóng vai trò quan trọng như lẽ công bằng, sự thừa nhận mặc nhiên cũng dần trở thành án lệ; giải thích pháp luật mới của Tòa án tối cao, hoặc bản án, quyết định hướng dẫn nhưng có thể tham khảo để xử lý các vụ việc khác, hoặc bản án, quyết định hướng dần nhưng do tích lũy mà dẩn trở thành khái niệm có cả ngoại vi lẫn nội hàm cũng là nguồn án lệ...
Kể từ tháng 5/1947 trên các Nhật báo của Nhật Bản đã đăng “Tuyển tập án lệ của Tòa án tối cao” và vẫn tiếp tục đăng đến nay. Số vụ án được đăng trong những năm gần đây khoảng 50 đến 70 vụ một năm. Mỗi tháng, Tòa án tối cao Nhật Bản in ấn, công bố “Tuyển tập án lệ dân sự, hình sự” và lưu hành trên thị trường (khoảng 1500 bản). Nhằm giúp việc sử dụng, tra cứu tiện lợi hơn, các tạp chí án lệ cũng sẽ đăng các án lệ đã được lựa chọn này trong vòng nửa năm sau đó. Các bản án, quyết định tuy không được chọn đăng trong tuyển tập án lệ nhưng xét thấy có những nội dung quan trọng, có giá trị tham khảo để áp dụng thực tế cũng sẽ được tổng kết trong các Kỷ yếu Dân sự, Hình sự của Tòa án tối cao phát hành nội bộ khoảng 500 bản mỗi kỳ. Án lệ của Nhật Bản được các tạp chí án lệ đăng lại và bán trên thị trường hoặc công bố trên mạng, rất tiện dụng cho người dân tìm hiểu. Tiêu chí xét tính ràng buộc của án lệ dựa trên hình thức phân biệt án lệ giải thích, án lệ quy phạm và án lệ hướng dẫn.
Những vấn đề về án lệ của Việt Nam
Quá trình thảo luận, các chuyên gia Nhật Bản và đại biểu đã nghe lãnh đạo Vụ Pháp chế và quản lý khoa học TANDTC trình bày về quy trình lựa chọn, công bố, nguyên tắc áp dụng án lệ của Việt Nam. Theo Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ thì Hội đồng tư vấn án lệ gồm 9 người trong đó có Chủ tịch Hội đồng khoa học TANDTC, đại diện bộ Tư pháp, VKSNDTC, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các chuyên gia pháp luật. Tiêu chí lựa chọn án lệ phải là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn và được Chánh án TANDTC công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử. Án lệ phải chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể; có tính chuẩn mực, có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; bảo đảm những vụ việc có tình tiết, sự kiện pháp lý như nhau thì phải được giải quyết như nhau…
Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Thúy Hiền phát biểu tại buổi tọa đàm
Tại buổi tọa đàm, các đại biểu đều có chung quan điểm là các án lệ của Việt Nam đã được công bố chủ yếu thuộc lĩnh vực dân sự, kinh doanh thương mại, hình sự, hành chính. Mặc dù số lượng các án lệ được ban hành còn khiêm tốn nhưng đã thể hiện quyết tâm của lãm đạo TANDTC, các Thẩm phán TANDTC và được nhìn nhận là dấu ấn quan trọng về cải cách tư pháp, góp phần minh bạch hóa các bản án, quyết định của Tòa án, đã phần nào đáp ứng được mong đợi của người dân, khắc phục được các khiếm khuyết và đảm bảo việc áp dụng pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch trong các phán quyết của Tòa án.
Tuy nhiên, các đại biểu cho rằng, thực tế hiện nay đa số các bản án, quyết định của Tòa án còn tập trung vào những nội dung mang tính “sự vụ”, lập luận của Thẩm phán về đường lối giải quyết vụ việc còn thiếu những nội dung mang tính khái quát cao nên khó có thể lựa chọn được nhiều án lệ có chất lượng tốt. Qua gần 1 năm thực hiện quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ tại Việt Nam thấy rằng đã từng bước đi vào thực tiễn, nhưng vẫn còn nhiều công việc tiếp tục phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia có bề dày về án lệ trên thế giới để hoàn thiện chế định về án lệ ở Việt Nam.
Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Thúy Hiền cho biết, đến tháng 12/2016, TANDTC đã công bố 10 án lệ điển hình, trong đó có 1 án lệ về hình sự, 6 án lệ về dân sự, 2 án lệ về kinh doanh thương mại và 1 án lệ về hành chính. Việc lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ trong thời gian vừa qua là một trong những thành tựu nổi bật của cải cách tư pháp, góp phần áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm các phán quyết của Toà án đúng pháp luật, bảo đảm công lý, công bằng, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Tiếp tục hoàn thiện chế định án lệ
Theo Giáo sư Murakami Keiichi, ở những nước áp dụng nguyên tắc luật pháp định (nguyên tắc luật thành văn) như Nhật Bản và Việt Nam, Thẩm phán áp dụng và đưa ra phán quyết dựa trên luật do Quốc hội ban hành, Nghị định do Chính phủ (Nội các) ban hành và các pháp lệnh, lệnh do cơ quan nhà nước địa phương ban hành (các văn bản quy phạm pháp luật). Tuy nhiên, các quy định của các văn bản luật nêu trên về mặt tính chất vốn mang tính trừu tượng nên không thể tránh khỏi có khác biệt trong cách hiểu nội dung ý nghĩa. Kết quả là, ngay cả trong các vụ án hoàn toàn giống nhau hoặc tương tự, nhưng nếu Tòa án và Thẩm phán khác nhau thì vẫn không tránh khỏi việc đưa ra kết luận khác nhau từ việc giải thích và áp dụng luật khác nhau và điều này trái với nguyên tắc công bằng, bình đẳng.
Hơn nữa, trong từng vụ việc cá biệt thì việc xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm, tái thẩm được xem là việc sửa sai trong việc giải thích và áp dụng luật không đúng trước đó. Nhưng để hiệu lực của việc sửa sai đó không lan rộng đến các vụ việc khác thì tự thân việc xét xử ở cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm nhằm thống nhất cách giải thích và áp dụng luật cũng chỉ có giới hạn. Vì vậy, để thống nhất được việc giải thích và áp dụng luật, án lệ được đặt ở vị trí là phán quyết (văn bản tư pháp) của Tòa án cấp trên có thẩm quyền hơn, được dành cho những tiêu chuẩn nhất định và việc Thẩm phán khi xử lý các vụ việc tương tự, cùng loại phải tuân theo án lệ thì gọi là “định chế án lệ”. Việc xây dựng hệ thống án lệ ở Việt Nam hiện nay là chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể nhằm bảo đảm việc áp dụng pháp luật một cách thống nhất. Để đạt được mục đích đó thì cơ quan có thẩm quyền cần phải có sự lựa chọn phù hợp các loại án lệ giải thích, án lệ quy phạm, án lệ hướng dẫn .
Còn ông Sakai Naoki, Thẩm phán, chuyên gia Nhật Bản cho rằng, theo chế độ tư pháp hiện nay ở Việt Nam thì án lệ sẽ giúp cho việc giải thích pháp luật thống nhất, dễ phổ biến giải thích tư pháp của nhà nước hoặc các văn bản chỉ đạo đạt hiệu quả tốt hơn về thời điểm, nội dung. Với tư cách là một phương pháp thuận tiện ban hành các giải thích tư pháp, án lệ sẽ giúp cho Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư một cách tích cực để có sự áp dụng thống nhất pháp luật, đồng thời giúp cho người dân hiểu rõ hơn về kết quả pháp lý đối với những vụ việc. Do vậy, việc áp dụng án lệ ở Việt Nam như thế nào, chế định này có mức độ hiệu lực ràng buộc với Thẩm phán đến đâu là vấn đề quan trọng cần xem xét để án lệ tạo được hiệu quả sắc bén nếu Thẩm phán được yêu cầu phải trích dẫn án lệ để ghi vào văn bản tư pháp.
Tiếp thu những ý kiến đóng góp của các chuyên gia Nhật Bản và đại biểu tham gia buổi tọa đàm, Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Thúy Hiền nhấn mạnh, trong thời gian tới đây, việc xây dựng, ban hành và áp dụng án lệ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống TAND. Buổi tọa đàm được các Thẩm phán, chuyên gia của Nhật Bản giới thiệu, chia sẻ kinh nghiệm quý báu về án lệ thực sự là cơ hội rất tốt để Việt Nam nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện quy định về lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ trong thực tiễn xét xử tại TAND các cấp. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang tiếp tục đẩy mạnh việc học tập kinh nghiệm quốc tế về việc xây dựng và phát triển án lệ cho phù hợp với đặc thù của pháp luật Việt Nam; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao năng lực, kỹ năng cho Thẩm phán, cán bộ Tòa án về nghiên cứu, áp dụng án lệ trong thực tiễn xét xử.
Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo TANDTC, Phó Chánh án Nguyễn Thúy Hiền trân trọng cảm ơn JICA đã giúp đỡ, thực hiện các chương trình hợp tác, tăng cường năng lực cho TAND; đồng thời mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác có hiệu quả của JICA trong thời gian tới.