Nguy hiểm nhất cho một phiên toà là khi bản án đã được tuyên mà sự thật vẫn thuộc về phía người bị khép tội.
Nguy hiểm ở đây không chỉ cho uy tín của hệ thống Toà án, của nền tư pháp, của luật pháp Nhà nước mà cho toàn xã hội. Bởi vì bản chất của con người, cả về mặt sinh học lẫn văn hoá là chỉ thần phục sự thật. Vì thế, khi họ bị tước đoạt của cải họ có thể cam chịu, còn nếu bị tước đoạt sự thật, thì họ sẽ tìm mọi cách để lấy lại bằng được. Những cách ấy bao gồm cả việc trà đạp lên những sự thật khác.
Có ba câu chuyện liên quan đến xử án mà tôi thuộc từ thời trẻ khi đọc sách nhưng cứ liên tục phải suy ngẫm cho đến tận bây giờ.
Chuyện thứ nhất kể vua Salomon xử kiện vụ hai bà mẹ tranh nhau một đứa bé. Bà nào cũng khẳng định đứa trẻ là con của mình. Không thể tìm ra bằng chứng, vua Salomon bèn đưa ra phán quyết: Sẽ chặt đôi đứa bé, chia cho mỗi bà mẹ một nửa, thế là công bằng! Phán quyết vừa buông ra thì một bà mẹ vội quỳ ngay xuống, khóc lóc khấu đầu van xin nhà vua tha tội vì mình đã nói dối, bởi đứa trẻ là con của bà kia, xin nhà vua trả cho bà ta và không phải chặt đôi đứa bé nữa. Nhà vua bèn chỉ mặt người vừa van xin bảo: “Mụ ra mà bế con mụ về”, đồng thời lệnh tống người đàn bà còn lại vào ngục vì tội bắt cóc trẻ con.
Chuyện thứ hai là vụ xử kiện của “quan toà” Xantrô Panxa, nhân vật đánh xe trong tác phẩm Donkihote của Xecvantec, khi ông được làm thống đốc một hòn đảo. Nguyên đơn là một phụ nữ, bị đơn là gã lái buôn. Nguyên đơn tố bị đơn đã cưỡng hiếp chị ta. Nghe xong, Xantrô đập bàn ra ngay phán quyết là gã lái buôn phải bồi thường cho người đàn bà 30 quan tiền vàng, một tài sản rất lớn. Gã lái buôn quỳ mọp xuống kêu oan, trong khi người đàn bà thì vô cùng mãn nguyện, đùm tiền vào áo, cảm ơn “quan toà” sáng suốt như trời rồi xin được về nhà ngay. Người đàn bà đi rồi nhưng gã lái buôn vẫn một mực kêu oan. Xantrô bèn bảo hắn đứng dậy, ghé tai nói nhỏ: “Đuổi theo mụ ta mà lấy lại tiền”. Gã lái buôn nghe xong bèn lao vụt theo người đàn bà khi đó đã cách một quãng xa. Hắn lao vào giằng bọc tiền. Nhưng dù đã dùng hết sức, gã lái buôn vẫn không cách nào đoạt lại được số tiền từ tay người đàn bà. Hai bên bèn túm nhau trở lại gặp quan toà. Xantrô nhìn thấy người đàn bà vẫn bảo vệ được số tiền, trong khi gã lái buôn thì sắp kiệt sức, bèn đập bàn quát: “Con mụ kia, trả lại tiền cho nó!” Người đàn bà tỏ vẻ ngạc nhiên không hiểu sao quan lại giở mặt nhanh thế. Bấy giờ “quan toà” vốn là gã đánh xe ngựa mới dõng dạc đáp: “Nếu nhà ngươi cũng bảo vệ phẩm tiết như vừa bảo vệ túi tiền thì liệu hắn ta có làm gì được không? Thể nào cũng có yếu tố thông đồng” Người đàn bào tẽn tò trả lại tiền rồi bỏ đi trong nỗi hổ thẹn.
Chuyện thứ ba liên quan đến trí anh minh của cả một dân tộc. Đó là từ hơn 2000 năm trước người Do Thái đã có một quy định lạ đời-so với thế giới- trong việc xét xử tội phạm. Hội đồng xét xử gồm 100 thành viên được lựa chọn nghiệt ngã về mặt phẩm hạnh. Ai đó bị 51 người trở lên trong Hội đồng xét xử phán có tội, lập tức hắn ta bị tống giam hoặc đưa đi treo cổ. Nhưng nếu cả 100 người trong Hội đồng cùng phán kẻ nào đó có tội, thì tội nhân lại được tha bổng ngay tức khắc. Người Do Thái cho rằng khi ai đó bị tất cả chống lại, chắc chắn anh ta không phải là tội nhân tầm thường. Những gì anh ta làm có thể vượt ra khỏi thời đại vì thế nằm ngoài khả năng phán xét công bằng của người đương thời. Trong trường hợp ấy, giữa khả năng để lọt tội phạm, kể cả tội phạm nguy hiểm và giết oan một người vô tội, thì toà án Do Thái đã chọn thà để lọt tội phạm còn hơn giết oan.
Những câu chuyện vừa kể cho thấy rõ nhất một điều, bất cứ ai, dù có là thiên tài, cũng có thể mắc sai lầm bởi khả năng của con người là có hạn. Vì thế người thông minh chính là người nhận ra những giới hạn của mình. Một nền tư pháp nghiêm túc là phải luôn nhận ra giới hạn về khả năng phán xét của mình. Khi một quan toà tự tin đến mức cho mình là người hoàn hảo về trí tuệ, thì phải nghiêm cấm anh ta ngồi ghế xét xử. Nguy cơ có rất nhiều người bị kết án oan bởi anh ta là vô cùng lớn. Bởi sẽ không còn khoảng trống của sự do dự trong phán quyết mà anh ta đưa ra. Chính cái khoảng trống thể hiện sự thiếu tự tin ấy, là chỗ để trái tim chen ngang và nói tiếng nói của mình. Tiếng nói ấy mang theo toàn bộ kinh nghiệm sống, toàn bộ kinh nghiệm lịch sử về lẽ phải, toàn bộ kinh nghiệm về cái có lý ở đời mà không ngôn ngữ nào có thể mô tả hết. Những kinh nghiệm đó không thể thay thế các phán xét dựa trên những bằng chứng mà lý trí tin cậy, càng không thể thay thế các nguyên tắc pháp lý là mọi sự phải được chứng minh bằng thứ ngôn ngữ rõ ràng, có logic khoa học, theo đúng chính tả và không bị hiểu sai. Nhưng nó có giá trị như một phương tiện tiếp cận sự thật.
Xét cho cùng, mọi phán xét pháp lý chỉ thuyết phục khi nó đảm bảo sự thật được tôn trọng tuyệt đối và sự thật đang ở trong tay phía đưa ra phán xét. Mà nhận diện sự thật thì chỉ lý lẽ không thôi là không chắc chắn.
Nhân vật trong Tiểu thuyết mang tính hồi ức Người tù khổ sai Papilon là nhân vật có thật. Toàn bộ cuốn sách là diễn biến của 17 cuộc vượt ngục khủng khiếp của người tù tên là Papilon. Có không biết bao nhiêu nguy hiểm luôn cận kề bên anh ta. Chỉ riêng con số 17 lần vượt ngục, đã đủ thấy độ rủi ro của hành động cao đến mức nào. Papilon hoàn toàn ý thức được rằng, anh ta có thể phải chết, thậm chí chết một cách đau đớn như bị bắn vỡ sọ và rơi xuống nền đá từ độ cao hàng trăm mét, bị thú rừng xé nát, bị cá mập nuốt sống, bị làm mồi nhắm rượu cho bọn cướp biển…Có trùng trùng nguy hiểm dựng lên trước mặt anh ta. Nhưng anh ta vẫn không bỏ cuộc. Nếu chỉ vì mạng sống, chắc chắn không ai đủ can đảm làm như vậy. Vì trong tù anh ta cũng có thể đạt được điều đó. Động cơ lớn nhất thúc giục anh ta hành động chính là vì sau phán quyết của toà án kết tội anh ta, sự thật vẫn thuộc về phía anh ta. Mà nói như một nhà triết học Hy Lạp thì: “Khi có sức mạnh của sự thật trong tay, tôi chẳng phải sợ gì hết”. Anh ta chiến đấu để đòi lại những thứ đã bị tước mất một cách bất minh và bất lương. Khi đó sức lực của con người là vô cùng khủng khiếp, cả ở khả năng tự vệ cũng như gây hoạ cho xã hội.
Giá như mọi quan toà đều đọc cuốn sách ấy để thấy sự thật khó tước đoạt như thế nào, dù dựa trên bất cứ danh nghĩa gì.
Giá như viên chánh toà huyện Chư-Sê, tỉnh Gia Lai có đọc cuốn sách ấy và đọc những chuyện liên quan đến xét xử mà tôi vừa dẫn, hẳn phiên toà vụ “hòn đá bị nhốt” không đáng bị thành trò đàm tiếu như đang xảy ra. Tôi không bảo phán quyết của toà xung công hòn đá, như xung công một tài sản thuộc về sở hữu toàn dân là sai. Nhưng tôi biết chắc nếu toà án huyện Chư-Sê phán ngược lại, trả hòn đá cho bà Trần Thị Sắc cũng không hề sai. Ở đời luôn có những tình huống pháp lý như vậy. Chính là lúc cần phải dựa thêm vào tình. Phán quyết thứ nhất có thể đúng về lý nhưng vô tình. Còn nếu theo phán quyết thứ hai thì vẫn đúng về lý, lại có tình, mà cũng thuận lẽ tự nhiên: coi như viên đá (tài sản không hề lớn, khoảng 1,5 tỉ đồng như định giá của cơ quan Nhà nước) là do trời cho bà Sắc. Trời cho ai thì người ấy được. Biết đâu cũng là do tổ tiên ông bà họ tu thân tích đức con cháu mới đào được viên đá. Vả lại nếu không phải viên đá, mà là quả bom tấn nổ chậm còn sót lại thì mọi sự sẽ thế nào? Chuyện này cũng phải được đặt ra. Nhưng mấu chốt của vấn đề là không ai bị hại bởi phán quyết như vậy. Còn phán quyết như toà vừa tuyên thì chắc chắn có người cảm thấy bị hại, bị đối xử bất công (hàng loạt người xung quanh đào ao thì không sao!) đó là bà Sắc.
Xử án là dựa trên bằng chứng và lý lẽ. Nhưng có những lý lẽ cao nhất lại chỉ có trái tim lương thiện mới minh định được. Trái tim có thể không nên can dự vào quá trình xét xử, nhưng mọi phán quyết cuối cùng của bất cứ phiên toà nào, nên tham khảo tiếng nói của nó.