Thời trẻ, là một học sinh giỏi, được đi học nước ngoài nhưng ông đã gác lại để lên đường nhập ngũ và trực tiếp chiến đấu nơi chiến trường.
Vào cuối năm 1974, ông lại được đơn vị cử đi học đại học và làm nghiên cứu sinh ở ngôi trường danh giá tại Liên bang Nga. Về nước, sau hơn 30 năm công tác và cống hiến cho ngành Tòa án và đến nay sau khi đã về hưu, ông vẫn làm việc không ngừng nghỉ. Đó là PGS.TS Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án TANDTC, Chánh án TAQS Trung ương.
Nhiều người vẫn nghĩ, một nhân vật tầm cỡ như ông phải là người khuôn mẫu, nghiêm nghị và khó tính… Nhưng với Trung tướng Trần Văn Độ, ngoài sự uyên bác của một chuyên gia luật, một lãnh đạo mực thước, ông còn là người có lối sống rất bình dị, luôn đau đáu và mong mỏi xây dựng một hệ thống pháp luật nhân đạo, hướng thiện, vì con người.
Sinh năm 1954 ở Hà Tĩnh, là một học sinh học giỏi, tốt nghiệp cấp 3 ông có giấy gọi đi học đại học ở nước ngoài, nhưng trước cảnh đất nước bị chiến tranh, được sự động viên của gia đình, người thanh niên Trần Văn Độ đã lên đường nhập ngũ. Sau đó, vào cuối những năm 1974 đầu 1975 ông lại được đơn vị cử đi học đại học rồi làm nghiên cứu sinh tại Liên Xô.
Năm 1986 ông về nước và công tác tại Tòa án quân sự Trung ương từ vị trí trợ lý, Thư ký Tòa án, Thẩm phán và sau này làm Chánh án TAQS Trung ương. Ông chia sẻ, thời gian học tập ở Liên Xô khi ấy đã cho ông những kiến thức pháp lý hàn lâm rất tốt phục vụ cho quá trình làm việc, nghiên cứu sau này và có giá trị áp dụng thực tiễn cao.
Những vấn đề đến nay còn nguyên giá trị, trong đó ông tâm đắc nhất là các nội dung như: Mối quan hệ chế ước hiệu quả giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (đó là mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, trong đó Viện kiểm sát giữ vai trò chỉ đạo quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ điều tra, Tòa án có chức năng xét xử, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người); đặc biệt là quan điểm tiến bộ về phòng ngừa tội phạm theo hướng coi trọng phòng hơn chống, xác định nguyên nhân,… các hình thức pháp luật mang tính hướng thiện, giáo dục con người, trong đó có trẻ vị thành niên.
Cũng chính vì tư tưởng pháp luật hướng thiện đó mà khi ông còn là Thẩm phán, có những vụ án được xét xử nghiêm minh nhưng thấm đẫm tình người. Đó là vụ án về một người lính trẻ mới bước qua tuổi vị thành niên. Vì còn trẻ lại là lính mới nên cậu thường xuyên bị lính cũ bắt nạt. Vào một buổi tối, khi đang canh gác, cậu nhìn thấy người bạn thân của mình bị 5 người lính cũ hay đánh mình đuổi đánh. Vì đang đứng gác, có súng trên tay, cậu bóp cò bắn chết 3 người, làm bị thương 2 người. Toà án cấp sơ thẩm xử cậu thanh niên mức án tử hình. Đến giai đoạn phúc thẩm, ông được giao xét xử vụ án.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án ông nhận thấy, cậu lính gây thảm án là một phần do lỗi rất nghiêm trọng của các bị hại (Cậu từng bị đánh dã man 7 lần trước đó) và do lỗi quản lý quân nhân của đơn vị; xét thấy bị cáo còn có thể cải tạo, giáo dục trở thành người lương thiện, ông đã thuyết phục các thành viên Hội đồng xét xử quyết định sửa án sơ thẩm, tuyên cậu mức án chung thân. Sau 15 năm chấp hành án, cậu lính ấy được tha tù trước thời hạn, về đời thường và đã trở thành một doanh nhân thành đạt.
Trung tướng Trần Văn Độ làm việc ở Tòa án quân sự Trung ương được 30 năm cho đến khi nghỉ hưu. Trong suốt quá trình công tác ở các vị trí khác nhau, từ Thẩm phán đến lãnh đạo Tòa án quân sự, là Đại biểu Quốc hội, ông luôn trăn trở về tính nghiêm minh, nhân đạo của pháp luật, làm sao để xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; cố gắng giúp đỡ những con người lầm lỗi để họ trở về là người có ích cho xã hội.
Trong mấy chục năm làm Thẩm phán, ông chưa từng tuyên án tử hình. Có những lúc, phải đối diện với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng mà bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm tuyên án tử hình, nhưng chính ông lại là người điều tra kĩ lưỡng, tìm hiểu tận cùng vụ việc để tuyên án với mong muốn đúng pháp luật và cứu vớt một con người; giảm hình phạt tử hình cho bị cáo. Ông cho rằng hình phạt tử hình ít có giá trị phòng ngừa, nhưng khi áp dụng có thể gây hệ luỵ không nhỏ cho xã hội.
Những gia đình, dòng họ có người bị kết án tử hình sẽ rất khổ sở, chịu không ít sự kỳ thị của xã hội; họ ra đường chẳng dám ngẩng mặt lên; con cháu của họ khó có thể học tập, làm ăn, lập nghiệp bình thường như những người khác… Và không khéo, đó sẽ là mầm mống phát sinh tội phạm trong tương lai…
PGS.TS Trần Văn Độ, nguyên Phó Chánh án TANDTC, Chánh án TAQS Trung ương
Vậy nên chẳng phải ngẫu nhiên khi sửa Bộ luật Hình sự 1999, với tư cách một ĐBQH ông đã ủng hộ phương án bỏ hình phạt tử hình trong một số tội danh. Ông cũng là người khởi xướng đề xuất “cần truy trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân” khi mà trước đó tội phạm gây ô nhiễm môi trường của một số công ty gây thiệt hại vô cùng lớn cho người dân không thể xử lý được vì luật không quy định. Đề xuất này của ông cũng đã được tiếp thu vào dự thảo BLHS 2015 đang trong quá trình sửa đổi hiện nay.
Và mới đây nhất, trong một hội nghị chuyên trách lấy ý kiến về BLHS 2015 sửa đổi ông đã chỉ ra những lỗi nghiêm trọng trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý mà nếu như không được sửa chữa kịp thời sẽ gây hệ lụy khôn lường khi áp dụng.
Trước đó, từ những năm 1990, tại một đại hội trong quân đội, với tầm nhìn của người am hiểu chính trị, pháp lý, khi góp ý cho Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ, ông đã mạnh dạn đưa ra quan điểm cần nghiên cứu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng phân biệt rõ các cơ quan thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp và các cơ quan đó kiểm soát quyền lực lẫn nhau. Sau này, những quan điểm đó được xác định là tiến bộ, dần dần được đưa vào các Nghị quyết của Đảng và cụ thể trong Hiến pháp năm 2013.
Không những là nhà chuyên môn, nhà quản lý, vị tướng trong quân đội, PGS.TS Trần Văn Độ còn là một nhà khoa học, nhà giáo thực thụ. Là Phó Giáo sư, Tiến sỹ luật lâu năm và cũng trong số ít người có đóng góp lớn cho sự nghiệp Tòa án, những cống hiến khoa học trí tuệ cho xã hội, ông đã làm chủ nhiệm nhiều đề tài khoa học, đề án; công bố hàng trăm công trình khoa học các loại; đào tạo hàng ngàn Thẩm phán. Về nghỉ hưu và ở tuổi 63 nhưng hiện ông vẫn tiếp tục tham gia giảng dạy sau đại học, trực tiếp hướng dẫn thành công hàng chục tiến sỹ, hàng trăm thạc sỹ chuyên ngành luật. Học trò của ông trên khắp đất nước, ở nhiều ngành nghề khác nhau ai cũng nhắc đến ông với lòng tôn kính và cảm phục.
Sau những đề tài nghiên cứu khoa học, những bài nghiên cứu chính sách mà các tổ chức trong và ngoài nước “đặt hàng” rồi, những giờ bận rộn ngồi Hội đồng phản biện các nghiên cứu sinh bảo vệ luận án Tiến sỹ thì ông vẫn còn những “khoảng trống” tâm tư với ngành Tòa án. Ông bảo rằng, Thẩm phán hiện nay quá nhiều áp lực và mệt mỏi. Lượng án thì gia tăng đều theo các năm và độ phức tạp cũng tương đồng như thế. Biên chế Thẩm phán được phân bổ từ năm 2009 nhưng nếu như thời điểm đó lượng án cả nước khoảng 300 ngàn vụ mỗi năm thì đến nay con số đó là hơn 400 ngàn mà quân số vẫn vậy. Rồi tới đây, khi phải cắt giảm 10% biên chế theo nghị quyết của Bộ Chính trị, trong khi đó thẩm quyền xét xử được mở rộng các loại vụ việc... thì không biết ngành chúng ta sẽ chèo chống ra sao?
Ông cũng chia sẻ thêm rằng, đại đa phần Thẩm phán xuất phát điểm ai cũng là người liêm chính, chí công vô tư. Trong những buổi học, những bài giảng ông vẫn nói với các trò của mình là cán bộ Tòa án như thế. Nhưng sau lưng họ không chỉ là cơm áo gạo tiền như bao ngành nghề khác mà là áp lực nghề nghiệp, những lo lắng về nhiệm kỳ hay việc tái bổ nhiệm luôn hiện hữu và bị chi phối. Hơn nữa chế độ trách nhiệm người đứng đầu quá lớn luôn đòi hỏi Chánh án phải lo lắng nhiều điều…
Vậy nên cách hỗ trợ tốt hơn cả là từ phía Nhà nước, từ các chính sách phải làm. Làm sao đó để Thẩm phán, cán bộ Tòa án sống được với nghề và yên tâm công tác thì bên cạnh chế độ đãi ngộ còn là chế độ bổ nhiệm, nhiệm kỳ Thẩm phán suốt đời mà các nước tiên tiến trên thế giới áp dụng thì hãy đem đến Việt Nam.
Không chỉ thành công trong sự nghiệp, Trung tướng Trần Văn Độ còn có cuộc sống riêng hạnh phúc, các con ông đều giỏi giang, thành đạt. Bà Trần Thị Lan, là một giảng viên đại học ngoại ngữ đã song hành cùng chồng hàng chục năm qua. Từ năm 1986 khi ông bảo vệ luận án tiến sỹ về nước và công tác ở Tòa án quân sự Trung ương, họ đã cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi. Những năm tháng đó, ngoài giờ làm việc bà lại cùng ông cắt may thuê để kiếm thêm thu nhập trang trải cuộc sống, nuôi nấng các con. 5 năm liền, cứ sau mỗi giờ làm việc ông lại đến trường đại học ngoại ngữ học tiếng Anh để lấy kiến thức nghiên cứu,…đều có sự hiện diện và ủng hộ của bà.
Đến bây giờ, khi nhớ về những tháng ngày đã qua trong cuộc đời mình, ông vẫn cho rằng đó là những gì ông mong mỏi cống hiến là tình yêu, sự hậu thuẫn của người vợ đã đưa ông đến những thành công.