Đầu mối quản lý nợ công về một mối hay giữ nguyên quy định hiện hành; phạm vi điều chỉnh ra sao đối với nợ công là những vấn đề ĐBQH quan tâm tại phiên thảo luận về dự thảo Luật quản lý nợ công (sửa đổi) diễn ra sáng nay 16/6.
Lựa chọn cơ quan đầu mối
Tại dự thảo luật, Chính phủ vẫn đề nghị giữ nguyên ba đầu mối như hiện hành: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về vốn đối ứng, cân đối trả nợ, đàm phán vay với các đối tác song phương; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đàm phán vay vốn ODA và phân bổ vốn; Ngân hàng Nhà nước đàm phán các khoản vay của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).
ĐB Nguyễn Mạnh Cường (Quảng Bình) tán thành việc giữ nguyên 3 đầu mối: Bộ Tài chính chịu trách nhiệm về vốn đối ứng, cân đối trả nợ, đàm phán vay với các đối tác song phương; Bộ Kế hoạch và Đầu tư đàm phán vay vốn ODA và phân bổ vốn; Ngân hàng Nhà nước đàm phán các khoản vay của Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).
ĐB cho rằng, trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước vẫn làm tốt việc này. Các bất cập về năng thực quản lý dự án, bố trí nguồn đối ứng, giải phóng mặt bằng... không phải do Ngân hàng Nhà nước ký kết hiệp định. Ngân hàng Nhà nước đã là đại diện chính thức của Việt Nam ở WB ở ADB là hơn 40 năm, việc giao bảo đảm thuận lợi trong hoạt động, bảo đảm tính chuyên nghiệp, kế thừa, phù hợp thông lệ quốc tế - ông Cường cho biết.
Tuy nhiên, ĐB Nguyễn Văn Tuyết (Bà Rịa – Vũng) lại cho rằng, nếu giữ 3 đầu mối sẽ không khắc phục được hạn chế xảy ra trên thực tế, không giảm được đầu mối hành chính, biên chế...
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng chia sẻ: Kinh nghiệm quốc tế, tại WB có 185 thành viên, trong đó có 118 nước Bộ trưởng Bộ Tài chính nắm vai trò thống đốc; 6 nước Thống đốc Ngân hàng Trung ương nắm vai trò này, trong đó có Việt Nam và Lào; 61 nước do Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, thương mại và các bộ khác. Tại ADB có 67 thành viên, trong đó 48 Bộ trưởng Bộ Tài chính đóng vai trò thống đốc; 5 nước do Thống đốc Ngân hàng Trung ương đóng vai trò thống đốc - trong đó có Việt Nam và 13 nước là do cơ quan khác đại diện. Chúng ta đang hội nhập nên phải tính toán, đã đến lúc phải thay đổi nhưng cần lựa chọn thời điểm phù hợp.
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cũng nhắc lại quan điểm của Bộ Tài chính khi trình Chính phủ là một đầu mối, nhưng Chính phủ thống nhất ba đầu mối nên Bộ chấp hành. Còn về bất cập, chúng ta không làm được ngay, cần có lộ trình để không ảnh hưởng, tác động lớn đến quản lý nợ cộng. Nhưng nếu làm được ngay cũng là tốt. Còn về vấn đề giao cho Bộ nào làm đầu mối, không nhất thiết giao cho Bộ Tài chính mà cơ quan nào quản lý tốt đều được.
Phải thu hẹp phạm vi nợ công
Cho ý kiến về phạm vi điều chỉnh dự thảo Luật Quản lý nợ công, nhiều ĐB thống nhất với quan điểm, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương. Theo đó, không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ, nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), của đơn vị sự nghiệp công lập. Việc DNNN và đơn vị sự nghiệp công lập tự vay, tự trả thuộc quyền tự chủ của doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp. Trong trường hợp DNNN không đủ khả năng trả nợ thì thực hiện thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật tương tự như các loại hình doanh nghiệp khác. Trường hợp đơn vị sự nghiệp vay nợ không trả được nợ thì cơ chế xử lý cũng được áp dụng như đối với các doanh nghiệp. Nếu quy định nợ của DNNN, đơn vị sự nghiệp thuộc phạm vi nợ công sẽ dẫn đến gia tăng nghĩa vụ trả nợ công rất lớn, ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia.
ĐB Hoàng Quang Hàm
ĐB Hoàng Quang Hàm (Phú Thọ) cho rằng, để quản lý chặt chẽ và hiệu quả nợ công, Luật phải giải quyết được gốc rễ 3 vấn đề: Xác định phạm vi nợ công phù hợp; xác định tổ chức bộ máy, đầu mối quản lý nợ công hợp lý nhất, hiệu quả nhất; nhận diện được rủi ro nợ công (rủi ro trực tiếp và cả rủi ro tiềm ẩn) và xác định công cụ, biện pháp quản lý, xử lý rủi ro; đặc biệt là phải bảo đảm tinh thần của Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị là "đảm bảo dự phòng cho các rủi ro tiềm ẩn”.
ĐB cũng chưa thống nhất với việc Luật không quy định nội dung giám sát các khoản vay, nợ không tính vào nợ công vì khi có rủi ro thì nhà nước hoặc ngân sách nhà nước vẫn phải gánh chịu các khoản nợ này; và không quy định trong Luật này thì quy định trong Luật nào cũng cần phải làm rõ. Hiện các Luật liên quan không có các quy định để xử lý rủi ro của các khoản nợ này trên nguyên tắc không tăng gánh nặng cho Nhà nước, không ảnh hưởng đến an toàn nợ công.
Còn theo ĐB Nguyễn Ngọc Bảo cho rằng cần nghiên cứu thêm các khoản nợ khác mà Chính phủ không bảo lãnh đối với cả doanh nghiệp Nhà nước và DNNN nắm cổ phần chi phối. Vì trên danh nghĩa các khoản vay của các doanh nghiệp này là tự vay, tự trả nhưng doanh nghiệp thường nhận được sự hỗ trợ “mềm”, đó là các khoản hỗ trợ của Chính phủ dưới hình thức bổ sung vốn, giãn nợ, xóa nợ… Trên thực tế, chưa có DNNN nào phá sản mà luôn được trợ giúp bằng các phương pháp mềm để xử lý thua lỗ, hoạt động không hiệu quả. Nguồn hỗ trợ này cuối cùng đều góp phần vào việc tăng chi tiêu ngân sách, ảnh hưởng tới nợ công.
Những ví dụ điển hình được đại biểu dẫn ra như khoản nợ của Vinashin với các ngân hàng thương mại, Chính phủ cuối cùng vẫn phải bỏ ra một số tiền để bù đắp, đồng thời chuyển một phần nợ sang Vinalines…
Giải trình thêm về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nêu rõ, chúng ta đã tính đến DNNN vay lại vốn vay của Chính phủ và các khoản vay của DNNN do Chính phủ bảo lãnh vào phạm vi nợ công. Còn các khoản vay do DNNN tự vay, tự trả, thì DNNN là công ty TNHH một thành viên hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp khác theo quy định của Luậ Doanh nghiệp. Và theo hướng dẫn của Ngân hàng thế giới, chỉ tính nợ tự vay, tự trả của DNNN, còn nợ công nếu thỏa mãn 3 điều kiện, đó là: Chính phủ sở hữu 50% vốn của doanh nghiệp; hoạt động thu chi của DNNN được kết cấu trong dự toán ngân sách hàng năm và Chính phủ cam kết trả nợ thay trong trường hợp mất khả năng trả nợ. Ngoài ra, qua khảo sát 40 nước trên thế giới, hầu hết các nước đều không tính nợ DNNN vào nợ công. Quy định nợ DNNN không thuộc phạm vi nợ công cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.