Cải cách tư pháp

Bài 2: Tòa án thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm ngoài xét xử

Mai Thoa - Nguyên Thảo - Mai Đỉnh 24/10/2023 08:15

Nghị quyết số 27-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII nêu rõ: Mục tiêu trọng tâm đến 2030 là đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

cover-loat-bai-xay-dung-nha-nuoc-pq-b2.jpg
bai2.png

Nghị quyết số 27-NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII nêu rõ: Mục tiêu trọng tâm đến 2030 là đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Trao đổi với Báo Công lý, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí – Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, để đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới nguyên tắc này cần được nghiên cứu, xem xét trên cơ sở cách tiếp cận, định hướng mà Nghị quyết đã chỉ ra.

PV: Theo ông, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 27 về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới đặt ra những vấn đề gì đối với việc thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật?

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: Bảo đảm sự độc lập, chỉ tuân theo pháp của Thẩm phán, Hội thẩm trong xét xử, trên thực tế chưa đạt được như mong muốn. Bên cạnh đó, cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền theo định hướng của Nghị quyết 27-NQ/TW còn đòi hỏi nguyên tắc này cần phải tiếp tục được hoàn thiện với những nội hàm mới phù hợp với điều kiện phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.

Tôi cho rằng, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 27 của Trung ương cần quan tâm nghiên cứu một số vấn đề về nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Đó là, độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam; làm rõ chức năng xét xử trong Nhà nước pháp quyền; bảo đảm tính độc lập giữa các cấp Tòa án; bảo đảm những điều kiện để Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật; các thủ tục tố tụng cần phải quy định theo hướng bảo đảm sự độc lập của Tòa án, của Thẩm phán trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Để bảo đảm tính độc lập, tố tụng tại Tòa phải là tố tụng tranh tụng chứ không phải tố tụng buộc tội; Tòa án cần có kinh phí hoạt động - đây cũng là điều kiện bảo đảm quan trọng để Tòa án độc lập.

Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW cần nghiên cứu sâu về nguyên tắc “Xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Đó là, độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam; làm rõ chức năng xét xử, những điều kiện đảm bảo để Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí

PV: Ông có thể nói rõ hơn về ảnh hưởng của vấn đề độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam và chức năng xét xử trong Nhà nước pháp quyền đến việc thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ở nước ta?

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: Ở nước ta khi nghiên cứu về nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam các tác giả trong các ấn phẩm được xuất bản đều cho rằng nguyên tắc tập trung quyền lực có tính chất nền tảng, xuyên suốt và được Hiến định. Nghị quyết 27 về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn mới đã khẳng định việc hình thành cơ chế “độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Định hướng này được xem như xuất phát điểm cho các nghiên cứu về độc lập tư pháp trong cơ chế thực thi quyền lực nhà nước ở nước ta. Các nghiên cứu cần tiếp tục làm sáng tỏ vấn đề này, xây dựng cơ sở lý luận cho việc hiến định độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án.

Thứ hai là, độc lập tư pháp đòi hỏi xác định rõ ràng chức năng xét xử của Tòa án, chức năng này chỉ riêng có của Tòa án, các cơ quan nhà nước khác không thể chia sẻ, can thiệp gây ảnh hưởng đến quá trình xét xử và Tòa án cũng không phải thực hiện những nhiệm vụ khác ngoài xét xử trong quá trình giải quyết vụ án.

doc-lap-xet-xeu.jpg

Qua nghiên cứu của các chuyên gia pháp lý, cần phải khẳng định, chỉ khi xác định rõ chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp là của riêng Tòa án thì Tòa án mới có thể độc lập, mới đại diện cho nhánh quyền tư pháp trong mối quan hệ với lập pháp, hành pháp. Cũng trên cơ sở này sẽ phân biệt với phạm vi của quyền tư pháp bao gồm từ hoạt động khởi tố, điều tra và kết thúc ở việc thi hành xong bản án hình sự do các cơ quan khác thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án.

PV: Vậy ông nhận xét như thế nào về vấn đề bảo đảm tính độc lập giữa các cấp Tòa án trong việc thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 27-NQ/TW, Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới?

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: Tôi cho rằng, bảo đảm tính độc lập giữa các cấp Tòa án là một điều kiện để thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền theo Nghị quyết 27, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án là đòi hỏi cấp thiết của nhiệm vụ cải cách tư pháp hiện nay.

Trên cơ sở đánh giá mô hình tổ chức Tòa án hiện hành, Nghị quyết quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đã chỉ ra “Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính”. Đây là định hướng đúng đắn đáp ứng được đòi hỏi trước mắt cũng như lâu dài đối với việc hoàn thiện hệ thống Tòa án ở nước ta.

Nghị quyết 27-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, ngày 9/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới cũng đòi hỏi: “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp Tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.

Như vậy, thay đổi cách thức tổ chức Tòa án dựa trên tiêu chí địa giới hành chính sang tiêu chí chức năng, thẩm quyền xét xử là sự đổi mới có tính chất then chốt, đột phá trong cải cách tư pháp, có ý nghĩa đảm bảo nguyên tắc độc lập của Tòa án, mặt khác đảm bảo được tính hiệu quả và hiệu lực của toàn bộ hệ thống Tòa án, khắc phục được những hạn chế của hệ thống Tòa án hiện nay.

Trên cơ sở tiêu chí này thì hệ thống Tòa án sẽ được tổ chức thành 4 cấp, gồm “Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Nhưng định hướng đúng đắn này có trở thành hiện thực hay không phụ thuộc vào việc triển khai tích cực của các cơ quan hữu quan, nhất là những cơ quan tư pháp.

xet-xu2.jpg

PV: PGS.TS có thể cho biết thêm về những điều kiện để thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 27-NQ/TW?

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: Mục đích của độc lập tư pháp, độc lập Tòa án hướng tới bảo đảm cho Thẩm phán được độc lập trong xét xử để Tòa án thuận tiện hơn trong việc phục vụ công lý, bảo vệ quyền lợi của các bên. Tính độc lập đó thể hiện ở việc Thẩm phán phải có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, không thiên vị, dựa trên bản chất của sự việc và theo luật pháp mà không chịu những hạn chế, tác động hay ảnh hưởng không phù hợp, hoặc sự dụ dỗ, sức ép, đe doạ hay can thiệp sai trái, một cách trực tiếp hay gián tiếp, từ bất cứ chủ thể nào, với bất cứ lý do nào.

Vì vậy, để Thẩm phán được độc lập cần có những quy định pháp lý như: Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời chứ không phải là bổ nhiệm theo nhiệm kỳ; được miễn trừ trách nhiệm pháp lý do rủi ro nghề nghiệp trừ khi họ phạm vào những tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia; Có chế độ đãi ngộ cao phù hợp, đồng thời với việc tăng cường trách nhiệm của Thẩm phán; Tạo sự tôn vinh của xã hội đối với Thẩm phán;...

Cùng với đó, các thủ tục tố tụng cần phải quy định theo hướng bảo đảm sự độc lập của Tòa án, của Thẩm phán trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án

Hơn nữa, việc phân chia chủ thể tố tụng hình sự thành “cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng” và “người tham gia tố tụng” là không hợp lý mà thay vào đó, cần có một khái niệm chung cho những cơ quan và cá nhân này là: “Các chủ thể của tố tụng hình sự” và luôn gắn với chức năng cơ bản của tố tụng hình sự.

Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền theo Nghị quyết 27-NQ/TW, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án là đòi hỏi cấp thiết của nhiệm vụ cải cách tư pháp hiện nay.

PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí

Phân định chủ thể tố tụng theo cách này các chủ thể sẽ kiểm soát lẫn nhau trong hoạt động tố tụng giải quyết vụ án xuất phát từ nhu cầu, mục đích tự thân của các chủ thể, do đó sẽ nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình, hạn chế lạm quyền, chống và phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực.

Đặc biệt, Hiến pháp năm 2013 quy định, Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp đó là chức năng chỉ riêng có của Tòa án, các cơ quan nhà nước khác không thể chia sẻ, can thiệp gây ảnh hưởng đến quá trình xét xử và Tòa án cũng không phải thực hiện những nhiệm vụ khác ngoài xét xử trong quá trình giải quyết vụ án.

Vì vậy, Luật Tố tụng hình sự cần quy định rõ Tòa án chỉ có chức năng xét xử, thực hiện quyền tư pháp trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời các thủ tục tố tụng cần phải quy định theo hướng bảo đảm sự độc lập của Tòa án, của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án.

Đồng thời, những quy định về trách nhiệm ngoài chức năng xét xử của Tòa án như: Trách nhiệm chứng minh tội phạm, trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự, trách nhiệm xét hỏi, thẩm vấn tại phiên tòa, trách nhiệm phòng ngừa tội phạm, trách nhiệm giáo dục pháp luật... cần được loại bỏ trong các Bộ luật về tố tụng. Có như vậy, Thẩm phán mới không bị phân tâm vào những trách nhiệm ngoài xét xử đôi khi trái với nguyên tắc độc lập khi đưa ra những phán quyết đối với các tranh chấp mà mình đang giải quyết.

Cuối cùng nhưng quan trọng không kém để thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật là Tòa án cần có kinh phí độc lập bảo đảm quan trọng để Tòa án độc lập.

Tài chính độc lập, không bị phụ thuộc vào hành pháp (thông qua sự phân bổ của Bộ Tài chính hàng năm) sẽ làm cho sự độc lập của Tòa án có tính hiện thực. Thường các nước quy định tỷ lệ phần trăm (%) cố định trên tổng số ngân sách chi tiêu công hàng năm cho Tòa án trong một đạo luật. Hàng năm, Tòa án tự động có được số kinh phí tương ứng với tỷ lệ phần trăm được luật quy định mà không cần phải thông qua hay xin bất kỳ một cơ quan nào, kể cả cơ quan lập pháp.

PV: Như vậy, còn rất nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu để đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trân trọng cảm ơn những trao đổi quý báu của PGS.TS với Báo Công lý về vấn đề nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Việt Nam trong điều kiện thực hiện Nghị quyết 27-NQ/TW.

(Còn nữa)

Loạt bài: Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và xây dựng Tòa án liêm chính phục vụ Nhân dân

* Bài 1: Xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới
* Bài 2: Tòa án thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm ngoài xét xử
* Bài 3: Xây dựng Tòa án liêm chính phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân

Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Bài 2: Tòa án thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập, không bị ràng buộc bởi những trách nhiệm ngoài xét xử