Trẻ từ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội có được áp dụng hình phạt dưới khung không?

Bình Nguyên (ghi)| 31/03/2020 08:31
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Xác định mức hình phạt đối với trẻ vị thành niên phạm tội “Cướp tài sản”; Mức bồi thường thiệt hại hay giảm nhẹ hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự 2015;... là những nội dung đang vương mắc mà các Tòa án đề nghị giải đáp.

Thẩm phán TANDTC Trần Văn Cò đã giải đáp nội dung các câu hỏi.

Có thể áp dụng mức hình phạt dưới khung

- Theo quy định tại khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự 2015 thì tội cướp tài sản có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. Vậy có được xử bị cáo từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mức hình phạt là 04 năm tù không?.

Trả lời câu hỏi này, Thẩm phán TANDTC Trần Văn Cò cho biếtTheo quy định tại Điều 91 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải bảo đảm các nguyên tắc như: Bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi;  Việc truy cứu trách nhiệm hình sự, áp dụng hình phạt chỉ thực hiện trong trường hợp cần thiết, nếu thấy các biện pháp xử lý khác không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa; Việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi bảo đảm là thời hạn thích hợp ngắn nhất; Không áp dụng hình phạt tử hình, tù chung thân và hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội...

 Trẻ từ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội có được áp dụng hình phạt dưới khung không?

Ông Trần Văn Cò, Thẩm phán TANDTC

Theo quy định tại Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì mức hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người từ đủ 16 tuối đến dưới 18 tuổi cao nhất không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định. Như vậy, luật chỉ khống chế mức phạt cao nhất áp dụng đối với đối tượng này mà không không chế mức thấp nhất.

Do đó, trong trường hợp nêu trên, Tòa án có thể áp dụng mức phạt 04 năm tù đối với bị cáo, nếu việc áp dụng hình phạt đó bảo đảm được mục đích của hình phạt và các nguyên tắc trong việc xử lý hình sự người chưa thành niên phạm tội.

- Trong một vụ án bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo lại xin giảm nhẹ hình phạt và giảm mức bồi thường thiệt hại. Tòa án cấp phúc thẩm có xem xét yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại hay không? 

Thẩm phán TANDTC Trần Văn Cò: Theo quy định tại khoản 1 Điều 342 của của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì: “Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo…”. Đồng thời theo quy định tại Điều 345 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì “Tòa án cấp phúc thẩm xem xét phần nội dung của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết, có thể xem xét các phần khác của bản án, quyết định không bị kháng cáo, kháng nghị”.

Do đó, đối với phần bồi thường thiệt hại của bản án có liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo thì Hội đồng xét xử có quyền xem xét, quyết định nhưng không gây bất lợi cho bị hại, đương sự.

Đối với phần bồi thường thiệt hại của bản án không liên quan đến trách nhiệm hình sự mà không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp này, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có quyền xem xét phần bản án đã có hiệu lực pháp luật.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

- Khi quyết định hình phạt, Tòa án có được coi các tình tiết về nhân thân của bị cáo như trình độ học vấn thấp, là lao động chính, có con nhỏ, có ông bà là người có công Cách mạng… là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự hay không?

Thẩm phán TANDTC Trần Văn CòHiện nay quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tham khảo quy định tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xác định tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, cụ thể như sau:

 Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước, gồm các trường hợp: Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ; Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên; 

Người bị hại cũng có lỗi; Thiệt hại do lỗi của người thứ ba; Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo; Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản; Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Trẻ từ 16 đến dưới 18 tuổi phạm tội có được áp dụng hình phạt dưới khung không?