Ngày 16/4, TAND TP Đà Nẵng đã mở phiên tòa xét xử bị cáo Trần Thị Hà (SN 1965, trú xã Hòa Tiến, H.Hòa Vang, TP Đà Nẵng) về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Theo cáo trạng, thông qua việc buôn bán phế liệu, vào năm 2007, Trần Thị Hà quen biết với bà Lương Thị Hai (trú 245 Tôn Đản, tổ 24, P.Hòa An, Q.Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng). Đến năm 2009, bà Hai cùng chồng là ông Nguyễn Kim Sô cần tiền kinh doanh buôn bán nhựa phế liệu nhưng vì không có giấy phép kinh doanh nên không vay được tiền ngân hàng. Trong khi ông Trịnh Hoài Linh Vũ, chồng của Hà có giấy phép kinh doanh, vì vậy hai bên thỏa thuận với nhau: Vợ chồng bà Hai, ông Sô cho vợ chồng Hà, Vũ mượn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số AP 603067 do UBND Q.Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng cấp cho bà Hai, ông Sô để Hà và ông Vũ thế chấp vay số tiền 100 triệu đồng tại ngân hàng Phương Nam, trong đó vợ chồng bà Hai vay số tiền 60 triệu đồng, còn vợ chồng Hà vay 40 triệu đồng.
Bị cáo Trần Thị Hà
Theo đó, ngày 30-6-2009, vợ chồng bà Hai, ông Sô lập Hợp đồng ủy quyền tại Văn phòng công chứng Ngọc yến để ủy quyền cho ông Vũ được quyền thế chấp GCNQSDĐ số AP 603067 vay tiền ngân hàng.
Bị cáo Hà khai, vào ngày 9-7-2009, vợ chồng Hà thế chấp GCNQSDĐ số AP 603067 vay tiền lần thứ nhất tại ngân hàng TMCP Kiên Long với số tiền 200 triệu đồng, về đưa lại cho bà Hai 60 triệu đồng còn lại giữ số tiền 140 triệu đồng để kinh doanh. Từ khi nhận 60 triệu đồng, hằng tháng, bà Hai đưa cho bị cáo số tiền 600 ngàn đồng để trả lãi ngân hàng. Từ năm 2010 đến năm 2015, vợ chồng bị cáo đã viết nhiều giấy với nội dung thể hiện việc mượn sổ đỏ của vợ chồng bà Hai, ông Sô để vay tiền ngân hàng chứ không có việc mua bán nhà.
Sau lần vay tiền tại Ngân hàng TMCP Kiên Long, để thuận lợi cho việc vay ngân hàng tiếp theo, lợi dụng hợp đồng ủy quyền có nhiều sơ hở, Hà yêu cầu chồng làm thủ tục sang tên nhà, đất theo GCNQSDĐ số AP 603067 cho mình (hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, lập ngày 26-3-2010, tại Văn phòng công chứng Ngọc Yến, việc Hà làm thủ tục chuyển nhượng này đã lén lút, giấu không cho vợ chồng bà Hai, ông Sô biết).
Thời gian sau đó, bị cáo liên tục sử dụng GCNQSDĐ của gia đình bà Hai số AP 603067 (đã đứng tên Hà, theo điều chính biến động sang tên ngày 1-4-2010) thế chấp vay tiền tại nhiều ngân hàng khác nhau để sử dụng vào việc kinh doanh. Lần cuối cùng, vào ngày 26-7-2013, bị cáo thế chấp GCNQSDĐ số AP 603067 vay số tiền là 1,4 tỷ tại Ngân hàng Á Châu chi nhánh Đà Nẵng.
Qua quá trình kinh doanh thua lỗ, đến khoảng tháng 12-2014, mất khả năng trả nợ và Ngân hàng Á Châu thông báo phát mại tài sản, bị cáo tìm đến bà Mai Phương Lan, nói dối với bà Lan mình là chủ sở hữu nhà đất tại số 103 Tôn Đản, P.Hòa An, Q.Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng, có GCNQSDĐ số AP 603067 đang thế chấp tại Ngân hàng và giới thiệu bán nhà, đất này cho bà Lan với giá 1,6 tỷ. Để tiếp tục tạo niềm tin cho bà Lan, bị cáo đã dẫn bà Lan và bà Mai Lan Anh (em ruột bà Lan) đến xem nhà, đất số 103 Tôn Đản. Khi bà Lan thấy kết cấu nhà và diện tích nhà đất 103 Tôn Đản khác với nhà, đất theo GCNQSDĐ số AP 603067 nên yêu cầu Hà cung cấp Giấy phép xây dựng (GPXD).
Để qua mặt bà Lan, bị cáo đưa cho bà Lan một GPXD (bản photo) do UBND Q.Cẩm Lệ cấp cho bà Hà, tuy nhiên GPXD này bị cáo đã chỉnh sửa nội dung từ một GPXD bản photo khác. Còn về diện tích nhà, đất 103 Tôn Đản bị cáo giải thích là do nhà nước mở rộng đường nên đã thu hồi mấy chục mét đất và cho bà Lan xem bản photo GCNQSDĐ số AP 603067 đứng tên mình là chủ sở hữu. Theo đó, bà Lan tin tưởng bị cáo là chủ sở hữu nhà, đất số 103 tôn Đản nên đã đồng ý mua nhà này với giá 1,6 tỷ (lúc này bà Lan hoàn toàn không biết GCNQSDĐ số AP 603067 có địa chỉ thực tế tại 245 Tôn Đản, P.Hòa An, Q.Cẩm Lệ là nhà của vợ chồng bà Hai-ông Sô).
Ngày 31-12-2014, tại Ngân hàng Á Châu, bà Lan giao đủ tiền để xóa thế chấp, sau khi nhận GCNQSDĐ số AP 603067 thì bị cáo giao cho bà Lan giữ (2 bên ký hợp đồng chuyển nhượng ngày 11-2-2015 tại Văn phòng công chứng Ngọc Yến). Sau đó, bà Lan làm thủ tục sang tên tại UBND Q.Cẩm Lệ thì mới phát hiện nhà đất có GCNQSDĐ số AP 603067 là nhà của vợ chồng bà Hai, ông Sô nên bà Lan tố cáo bà Hà lừa đảo chiếm đoạt số tiền 1,6 tỷ đồng. Số tiền chiếm đoạt được, Hà đã trả nợ ngân hàng số tiền hơn 1,5 tỷ đồng, số còn lại đã tiêu xài hết.
Tại phiên tòa xét xử, bị cáo Hà cho rằng mối quan hệ giữa bị cáo và bà Lan là mối quan hệ vay mượn chứ không phải mua bán. Tuy nhiên, từ các chứng cứ, tài liệu liên quan trong vụ án và những phân tích từ HĐXX, bị cáo không chối cãi được nên đã thừa nhận đó là mối quan hệ mua bán.
Về nhà đất số 103 Tôn Đản, đây là tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng ông Lê Đức Tịnh và bà Bùi Thị Ánh. Vào khoảng tháng 7-2014, ông Tịnh có nói với bị cáo Hà là bán nhà này với giá 2,1 tỷ, sau đó bị cáo dẫn người đến xem nhà, trước khi dẫn người đến, bị cáo luôn dặn vợ chồng ông Tịnh tránh mặt để mình nói chuyện với họ. Tin lời bị cáo, mỗi khi dẫn người đến thì vợ chồng ông Tịnh tránh mặt… Ngoài ra, theo kết quả xác minh tại Phòng Quản lý đô thị UBND Q.Cẩm Lệ thì trong năm 2011, UBND Q.Cẩm Lệ không cấp GPXD cho Hà có địa chỉ số nhà 103 Tôn Đản, P.Hòa An, Q.Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng.
Với hành vi như trên, VKSND TP Đà Nẵng đã truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a, khoản 4 Điều 174 BLHS.
Ngày 16/4, tại phiên tòa xét xử, sau khi xem xét các tình tiết của vụ án, HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Hà 7 năm 6 tháng tù theo đúng tội danh truy tố.