Ngoài mức án 30 năm tù giam tổng hợp của 4 bản án từ năm 2018 đến tháng 3/2021, bị cáo Đinh La Thăng còn phải bồi thường số tiền lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Liên tiếp hầu tòa bởi các đại án
Sai phạm của bị cáo Đinh La Thăng từ khi giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN).
Ở vụ án thứ nhất, sai phạm của bị cáo Đinh La Thăng khi còn giữ chức Chủ tịch HĐQT PVN.
Theo bản án phúc thẩm ngày 14/5/2018, bị cáo Đinh La Thăng chỉ căn cứ vào báo cáo của Tổng Công ty CP Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) và Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam (PVPower) để phê duyệt cho PVC làm tổng thầu Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2.
Thực tế, PVC chưa có kinh nghiệm quản lý, điều hành dự án lớn này. Việc chỉ định này trái với chỉ đạo của Chính phủ. Bị cáo Thăng cố ý làm trái với ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Hành vi "Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng" của bị cáo Thăng và các bị cáo gây thiệt hại hơn 119 tỷ đồng. Toà phúc thẩm tuyên phạt bị cáo Thăng 13 năm tù và buộc bị cáo Thăng phải bồi thường 30 tỷ đồng.
Ở vụ án thứ hai, tại thời điểm tháng 6/2018, TAND cấp cao tại Hà Nội đã tuyên y án 18 năm tù đối với bị cáo Đinh La Thăng, cựu Chủ tịch HĐQT PVN.
Sai phạm của bị cáo Thăng được xác định trong vụ án PVN mất 800 tỷ đồng khi góp vốn vào Oceanbank. Bị cáo Thăng còn bị buộc phải bồi thường 600 tỷ đồng. Trong vụ án này, bị cáo Đinh La Thăng bị cáo buộc ký kết thỏa thuận để PVN góp vốn vào Ocean Bank trái thẩm quyền, không đúng chức năng. Thỏa thuận này là tiền đề để ra các Nghị quyết góp vốn sau này. Hậu quả, PVN đã bị thất thoát số tiền lớn.
Ở vụ án thứ ba, ngày 22/12/2020, TAND TP Hồ Chí Minh đã tuyên án 20 bị cáo trong vụ án sai phạm tại cao tốc TP Hồ Chí Minh - Trung Lương. Trong đó, bị cáo Đinh La Thăng (cựu Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải) bị tuyên phạt 10 năm tù. Trong vụ án này, bị cáo Thăng bị cáo buộc tội "Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát lãng phí".
Ở vụ án tiếp theo, xảy ra tại Dự án Ethanol Phú Thọ, hôm 15/3, TAND Hà Nội đã tuyên phạt bị cáo Đinh La Thăng 11 năm tù tội "Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng", HĐXX cũng tuyên buộc bị cáo Đinh La Thăng phải bồi thường hơn 200 tỷ đồng, trong tổng số hơn 543 tỷ đồng thiệt hại từ việc chỉ định thầu cho PVC trái quy định pháp luật.
Như vậy, ngoài tổng hợp 4 bản án với mức phạt 30 năm tù giam (mức án cao nhất với tù có thời hạn), bị cáo Đinh La Thăng phải bồi thường tổng cộng 830 tỷ đồng.
Vì sao Đinh La Thăng nhận thêm án mà vẫn chịu tổng cộng 30 năm tù?
Về thắc mắc vì sao ông Thăng bị tuyên 4 bản án, song mức án tổng cộng chỉ có 30 năm tù, theo Luật sư Đặng Văn Cường (Đoàn Luật sư TP Hà Nội), đây là nguyên tắc của pháp luật hình sự Việt Nam.
Theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam thì hiện nay pháp luật Việt Nam quy định có 7 hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.
Trong đó, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về hình phạt tù có thời hạn như sau:
Trong trường hợp một người phạm nhiều tội thì Tòa án sẽ tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc của Bộ luật hình sự. Việc tổng hợp hình phạt sẽ căn cứ vào quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015.
Như vậy do tất cả các vụ án mà ông Đinh La Thăng bị kết án thì ông này chỉ bị Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Bởi vậy căn cứ vào quy định tại Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 thì Tòa án tổng hợp hình phạt sẽ không quá 30 năm tù (dù ông này có bị xét xử bao nhiêu lần, bao nhiêu lần bị kết tội đi chăng nữa).
Điều 56. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
2. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
3. Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.