Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”.
Để thực hiện đúng đắn quy định trên của Hiến pháp, cần thiết phải xây dựng những điều kiện đảm bảo cho TAND nói chung, Thẩm phán và Hội thẩm nói riêng được độc lập trong hoạt động xét xử.
Nguyên tắc “độc lập xét xử”
Nguyên tắc độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật được thể hiện ở hai yêu cầu: Xét xử độc lập và tuân theo pháp luật. Muốn vậy, Tòa án phải độc lập với cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, không bị giám sát, kiểm soát, lệ thuộc về quan điểm, tổ chức, nhân sự… Các cơ quan Nhà nước khác không được can thiệp vào việc xét xử của Tòa án vì Tòa án là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao cho thực hiện chức năng xét xử.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Ngoài ra, khi xét xử, HĐXX phải độc lập với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân. Thẩm phán, Hội thẩm không bị ràng buộc, chi phối bởi bất kỳ quan điểm, ý kiến nào. Các cá nhân, cơ quan, tổ chức không được can thiệp, tác động tới các thành viên của Hội đồng xét xử để buộc họ phải xét xử theo ý chí của mình. Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án đều bị coi là vi phạm pháp luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động xét xử. Trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã hội. Nhưng khi quyết định, Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện năng lực chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét các vấn đề của vụ án một cách độc lập, không ảnh hởi bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án.
Quá trình thụ lý hồ sơ, xét xử vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm không bị phụ thuộc vào kết quả giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn tố tụng trước. Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa.
Nguyên tắc xét xử độc lập còn thể hiện ở việc: Khi xét xử, các thành viên Hội đồng xét xử phải độc lập với nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận về các tình tiết trong vụ án mà không phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Chỉ các thành viên của Hội đồng xét xử mới được tham gia nghị án, Hội thẩm biểu quyết trước, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án được quyết định bằng hình thức biểu quyết và lấy kết quả theo đa số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.
Những bất cập và hạn chế
Hiện tại, có rất nhiều hạn chế, bất cập trong việc đảm bảo tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động xét xử của Tòa án thiếu khách quan. Những bất cập này tồn tại từ các quy định về tổ chức thực hiện hoạt động xét xử đến nhận thức của những người tiến hành tố tụng.
Trên thực tế, mặc dù nguyên tắc về tính độc lập của Tòa án và các Thẩm phán, Hội thẩm đã được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác, song nó chưa thực sự được tôn trọng và tuân thủ. Hơn nữa, quá trình xét xử của các Tòa án chưa thật sự coi trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng, ảnh hưởng tới hoạt động xét xử của Tòa án.
Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại các nhân tố bên ngoài tác động đến việc xét xử độc lập của Tòa án nói chung và Thẩm phán và Hội thẩm nói riêng, đó là: Theo quy định của pháp luật hiện hành, kinh phí hoạt động của hệ thống Tòa án ở nước ta còn phụ thuộc chặt chẽ vào các cơ quan Nhà nước khác, đồng thời phụ thuộc vào Tòa án cấp trên. Tình trạng này khiến cho các Tòa án khó tránh khỏi sự tác động của các cơ quan Nhà nước khác cũng như cho các Tòa án cấp dưới duy trì sự độc lập xét xử với Tòa án cấp trên.
Đồng thời, Hiến pháp 2013 kế thừa quy định của các bản Hiến pháp trước đây cũng quy định Quốc hội có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chánh án TANDTC; Quốc hội có quyền giám sát, xem xét các báo cáo của TANDTC về hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án, có quyền hủy bỏ các văn bản của TANDTC nếu trái Hiến pháp, luật hoặc Nghị quyết của Quốc hội, cho ý kiến, đánh giá về quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, quyết định phân bổ ngân sách cho hệ thống Tòa án… Như vậy, chưa có sự thừa nhận một cách đầy đủ về địa vị pháp lý cũng như về thẩm quyền, tính độc lập của Tòa án trong hệ thống các cơ quan Nhà nước.
Mặt khác, Hiến pháp cũng không quy định mối quan hệ hành chính giữa Tòa án các cấp, mối quan hệ giữa Tòa án các cấp là mối quan hệ tố tụng, như vậy có nghĩa là không có Tòa án cấp trên và không có Tòa án cấp dưới mà chỉ có Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm và các Tòa án thực hiện chức năng giám đốc thẩm, tái thẩm; các đơn vị Tòa án này thực hiện chức năng xét xử độc lập với nhau. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại tình trạng Tòa án cấp trên quản lý Tòa án cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ.
Hơn nữa, trong hoạt động xét xử hiện nay, Thẩm phán và Hội thẩm còn lệ thuộc vào kết quả điều tra, những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp, Hội đồng xét xử phụ thuộc vào kết quả điểu tra có trong hồ sơ vụ án, không quan tâm tới những ý kiến trình bày tại phiên tòa; do đó, quyết định của Hội đồng xét xử còn mang tính áp đặt dẫn tới tình trạng xét xử oan sai, trái pháp luật…
Một số giải pháp khắc phục
Để nâng cao tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm, nâng cao hoạt động xét xử, trước hết cần phải đảm bảo cơ chế thực hiện quyền xét xử của Tòa án các cấp thống nhất trong cơ chế tổng thể thực hiện quyền lực Nhà nước. Yêu cầu tiên quyết là phải đảm bảo cho Tòa án độc lập, chỉ tuân theo pháp luật trong việc thực hiện chức năng xét xử. Tòa án có độc lập thì Thẩm phán, Hội thẩm mới có thể độc lập.
Để đáp ứng yêu cầu này, cần phải giải quyết nhiều mối quan hệ giữa Tòa án và các cơ quan quyền lực Nhà nước khác; Tòa án với các cơ quan tiến hành tố tụng; mối quan hệ giữa các cấp Tòa án, giữa lãnh đạo Tòa án với các Thẩm phán, Hội thẩm – người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ xét xử…Theo đó, cần tiếp tục hoàn thiện mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử của Tòa án và trong các mối quan hệ đối với các cơ quan Nhà nước khác theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Hệ thống Tòa án cần chuẩn bị mọi điều kiện để tổ chức thực hiện tốt Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Việc thực hiện thành công Đề án sẽ là điều kiện thuận lợi cho hệ thống Tòa án nâng cao năng lực và vị thế của mình, góp phần xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đồng thời tạo bước phát triển mới của hệ thống Tòa án nhân dân.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn Hội thẩm theo hướng quy định người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm cần phải có trình độ pháp lý nhất định, ví dụ phải có bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn về pháp lý hoặc phải trải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật có thời hạn; đồng thời Tòa án cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền thực hiện tốt công tác bồi dưỡng, tập huấn cho Hội thẩm.
Đồng thời cũng cần phải xây dựng quy chế quản lý, giám sát đối với Thẩm phán và Hội thẩm trong việc thực thi nhiệm vụ, nếu áp dụng không đúng các quy định của pháp luật cần phải có biện pháp chế tài hành chính cụ thể nhằm tránh áp dụng pháp luật một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Thẩm phán và Hội thẩm; giữ gìn phẩm chất đạo đức và nâng cao năng lực, trình độ của Thẩm phán; cần xây dựng nguyên tắc miễn trừ trách nhiệm hình sự đối với Thẩm phán nếu họ không phạm vào các tội thuộc Chương XXII - Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp của Bộ luật Hình sự và tạo các điều kiện thuận lợi để các Thẩm phán yên tâm thực hiện nhiệm vụ xét xử, đảm bảo an toàn tuyệt đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm và gia đình họ khi thi hành công vụ.