Phóng sự - Ghi chép

Những cánh chim không mỏi

T.Thành 20/06/2025 - 07:41

Trong suốt hơn 20 năm lang thang, rong ruổi khắp mọi miền đất nước, tôi đã gặp đến hàng trăm nghệ nhân, nghệ sỹ người dân tộc thiểu số. Mỗi người có một số phận, hoàn cảnh khác nhau, song họ đều có một điểm chung là đam mê, trách nhiệm với những tinh hoa văn hóa của dân tộc mình. Có nhiều người, dù đã bước vào cái ngưỡng “thất thập cổ lai hy”, song vẫn đau đáu nỗi niềm làm sao để những nét văn hóa muôn một của tổ tiên không bị lãng phai đi.

Người giữ hồn cho phum sóc Khmer

Từ bao đời nay, âm nhạc nói riêng và các loại hình nghệ thuật khác nói chung đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống văn hoá của đồng bào Khmer ở Sóc Trăng nói riêng và người Khmer nói chung. Hầu như ở tất cả các dịp tết hay lễ hội của dân tộc này đều có sự xuất hiện của các dàn nhạc cùng với các điệu dân ca dân vũ.

z6681287037633_b1115c55fa8125221b2e23df10ec4f4d.jpg
Nghệ nhân Danh Sol biểu diễn tại chùa Chrôy Tưm Kandal.

Trong các loại hình nghệ thuật đó, nhạc ngũ âm là một trong những loại hình gắn bó mật thiết nhất với cuộc sống của người dân Khmer. Nó là máu thịt, là tiếng nói tâm linh, là nơi truyền tải niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Hơn nữa, nó còn là sợi dây gắn kết vững chắc giữa các thành viên trong gia đình, trong dòng tộc, trong các phum sóc dập dềnh trên kênh rạch miền Tây.

Trong mỗi nhịp đàn hay điệu múa Khmer luôn hàm chứa sức mạnh, niềm tin của con người với đấng siêu nhiên, niềm tin vào cộng đồng, vào cuộc sống để từ đó có thêm nghị lực và hy vọng về một ngày mai tươi đẹp.

Sinh ra, lớn lên và được tắm mình trong cái không gian văn hóa linh thiêng, tối cổ ấy, ngay từ khi còn nhở, âm nhạc đã ngấm vào Danh Sol như định mệnh. Cũng như bao cậu thiếu niên người Khmer khác, từ khi lên 8 tuổi, Danh Sol đã bắt đầu vào chùa Chrôy Tưm Kandal làm chú tiểu học chữ và thỉnh thoảng xách cà mèn cho sư sãi đi khất thực.

Nhưng khác với chúng bạn cùng độ tuổi, Danh Sol không mê chơi, mê ngủ, mà mê... nhạc. Cậu bé hầu như không bao giờ vắng mặt trong mỗi đêm hòa tấu nhạc ngũ âm của các cụ trong chùa. Mỗi lần thấy các cụ vừa buông tay đàn thì cậu lại nằn nì xin gõ thử...

Cứ thế, tháng này qua năm khác, cộng với sự chỉ dẫn tận tình của những nghệ nhân đi trước, đôi tay gõ nhạc của Danh Sol ngày càng thêm thành thục. Những giai âm cũng ngấm dần vào cậu bé Khmer như máu nóng chảy dưới da mềm.

Do ham học hỏi lại cần cù chịu khó nên khi mới 14 tuổi, Danh Sol đã trở thành “nhạc công” trẻ nhất của Đội nhạc ngũ âm chùa Chrôy Tưm Kandal. Cũng tại chùa này, đến năm 16 tuổi, cậu bé được mẹ đưa đi tu hành theo phong tục truyền thống của người Khmer. Sau 2 năm tu hành, Danh Sol hoàn tục, rồi tiếp tục theo đội nhạc của chùa đi phục vụ khắp trong và ngoài tỉnh.

Theo thời gian, những “đồng nghiệp” của Danh Sol cũng già và mất đi, Đội nhạc ngũ âm chùa Chrôy Tưm Kandal dần tan rã, không còn hoạt động. Tiếc nuối những gì mình đã học được, ông lại tìm đến các đoàn nghệ thuật quần chúng quanh vùng để được tiếp tục biểu diễn và thỏa với đam mê.

Sau nhiều năm bôn ba chơi nhạc khắp “Lục tỉnh Nam kỳ”, Danh Sol quay trở về chùa Chrôy Tum KanDal và xin với trụ trì cho mình lập lại đội nhạc. Rất may là trụ trì đồng ý. Thế nhưng, vạn sự khởi đầu nan.

Thời điểm mới được thành lập, đội nhạc của chùa gặp phải vô vàn khó khăn. Danh Sol phải đi đến từng nhà những người có khả năng chơi nhạc để vận động họ tham gia. Mãi mới gom đủ 7 người, thế là đội nhạc chính thức đi vào hoạt động.

Do cơ sở vật chất thiếu thốn, anh em từ khắp nơi tụ họp về, trình độ lại hạn chế, để có thể dàn dựng được mỗi tiết mục đầu tiên, cả đội đã phải cố gắng rất nhiều.

Khó khăn là vậy, nhưng cùng với sự chung sức chung lòng của các thành viên, nhất là sự kỳ vọng của cộng đồng, đội đã nhanh chóng trưởng thành và gây được tiếng vang không chỉ ở địa phương, góp phần khơi dậy và phát huy những giá trị nền văn hoá cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer quanh vùng.

Trong suốt những năm tháng đi biểu diễn, Danh Sol nhiều lần phải tiếc nuối khi chứng kiến nhiều loại nhạc cụ của dân tộc mình bị bỏ quên trong nhà kho của các ngôi chùa. Từ bấy giờ ông bắt đầu học cách để sửa chữa, khôi phục, gom lại “những giọt văn hóa” quý báu của tổ tiên. Không chỉ vậy, ông còn dành rất nhiều thời gian để truyền dạy cách chơi nhạc ngũ âm cho lớp trẻ.

Miệt mài truyền lửa, giữ nghề suốt mấy chục năm như thế nên trong giới nghệ nhân chơi nhạc ngũ âm ở Sóc Trăng, khi nhắc đến Danh Sol thì hầu như ai cũng biết và dành cho ông sự nể trọng, cả ở trình độ chuyên môn lẫn trong cách đối nhân xử thế. Ngày 8/3/2019, ông vinh dự được Chủ tịch nước ký Quyết định phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú”. Phần thưởng quý giá đó là nguồn động viên, khích lệ tinh thần rất lớn đối với người nghệ sỹ tài ba của phum sóc Đại Tâm. Âu đó cũng là “quả ngọt” mà ông xứng đáng được hưởng sau dằng dặc đời người vì văn hóa Khmer.

Đắm đuối với cồng chiêng

Đối với người dân Tây Nguyên, cồng chiêng như là máu thịt, là tiếng nói tâm linh, là nơi truyền tải niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ. Và nó cũng là sợi dây gắn kết vững chắc giữa các thành viên trong gia đình, trong dòng tộc, trong các buôn làng trên mảnh đất bazan.

Trong mỗi nhịp chiêng hay mỗi điệu cồng luôn hàm chứa sức mạnh, niềm tin của con người với đấng siêu nhiên, niềm tin vào cộng đồng, vào cuộc sống để từ đó có thêm hy vọng về một ngày mai tươi đẹp...

anh-bai-nhung-canh-chim-khong-moi-2.jpg
Nghệ nhân A Biu – Một trong những người ròn chiêng lão luyện ở Tây Nguyên.

Thế nhưng, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, cổ xưa khác, trong cuộc va đập đến nghiệt ngã với thị trường giải trí vàng thau lẫn lộn, đã có lúc cồng chiêng Tây Nguyên chấp chới, đứng trước nguy cơ mai một. Nhưng rất may vẫn còn có nhiều nghệ nhân, nghệ sỹ ngày đêm dốc sức nhằm gìn giữ, bảo tồn để môn nghệ thuật này không bị lãng phai đi. Trong số đó phải kể đến nghệ nhân A Biu (SN 1958), người dân tộc Ba Na, ở làng Plei Klech, xã Ngọk Bay, TP Kon Tum, tỉnh Kon Tum.

Đến giờ, nghệ nhân A Biu cũng chẳng nhớ mình đã đi bao nơi, đã tấu lên bao nhiêu giai điệu nguyên sơ tối cổ của đại ngàn Tây Nguyên, chỉ biết rằng, sau khi được chiêm ngưỡng không gian văn hóa cồng chiêng quyến rũ đến ngỡ ngàng ấy, thế giới đã phải công nhận đây là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Từ khi còn là một cậu bé có cái chân biết đi kiếm măng le, cái miệng biết hát lời chim Chơ rao, tối về cầm sừng trâu chiêu nước vào trong bình rượu cần phục vụ các cụ trong buôn, từ lúc tự thấy mình là người đàn ông vâm váp, chạy ngược chạy xuôi mổ lợn, giết trâu, hiếu động gõ chiêng ào ào trong các đám ma tràn ngập rượu, A Biu đã được sống trong không gian đắm say và linh thiêng của cồng chiêng, của các nhạc cụ giản dị mà nhiệm màu. Cứ gõ mãi, gõ mãi, bị các cụ mắng cho tơi bời vì tay lóng ngóng như rễ cây, tai ù đặc như phiến đá... rồi thì hồn chiêng bắt đầu ngấm vào A Biu từ lúc nào không biết nữa.

A Biu bảo, không chỉ riêng ông, mà thanh âm của cồng chiêng cũng ngấm vào các chàng trai Tây Nguyên hào sảng yêu ca hát nhảy múa khác, từ mỗi đêm nổi lửa, từ mỗi ngày chăm sóc hũ rượu cần cho bề trên, từ khi thúc tiếng chiêng lên mừng một sinh linh ra đời hay khóc thương một người già hết cõi.

Chỉ cần tay A Biu lướt nhẹ trên những núm chiêng, người nghe đã có thể thấy núi rừng, suối thác của Tây Nguyên ầm ào đến rất gần. Chỉ cần quả bầu, dăm ba ống nứa cùng vài vật dụng đơn sơ khác, A Biu đã có thể chế tác thành một loại nhạc cụ rồi thổi cái tài hoa của mình vào đó khiến nó ngân lên những âm thanh, giai điệu đầy mê dụ. Mỗi tiếng cồng, tiếng chiêng hay tiếng kèn biến hóa như ảo thuật của A Biu đều mang tải những lớp lang văn hóa của một tộc người quý giá...

Từ nhiều năm nay, vì lo sợ văn hóa cổ truyền bị phôi phai nên A Biu vẫn âm thầm đi đến làng trên xóm dưới, tới các trường học để truyền dạy cồng chiêng. Ông là 1 trong 3 nghệ nhân nhận lời truyền dạy diễn tấu cho học sinh, sinh viên người dân tộc thiểu số tại Trường Đại học Tây Nguyên.

Dẫu tuổi cao sức yếu, song có những khoảng thời gian cứ cuối tuần, A Biu lại bắt xe khách từ Kon Tum qua Đắk Lắk để đứng lớp. Cứ thế, tháng này qua năm khác, số học trò được ông truyền dạy lên đến hàng nghìn. Trong số đó có rất nhiều người trở thành những tay ròn chiêng lão luyện đến từ nhiều dân tộc khác nhau.

Có những thời điểm, khắp các buôn làng Tây Nguyên đều có bóng dáng của những người chuyên săn đồ cổ. Thấy vậy, nghệ nhân A Biu lại lặn lội đến từng buôn làng, vào từng nhà vận động người dân không vì cái lợi trước mắt mà bán đi những chiếc cồng, chiếc chiêng cổ mà cha ông để lại. Khi gặp những chiếc cồng, chiêng bị hư hỏng, ông lại kỳ cụi sửa chữa giúp mà không hề toan tính...

anh-bai-nhung-canh-chim-khong-moi-3.jpg
Cồng chiêng là biểu tượng văn hóa của Tây Nguyên.

Khoảng chục năm trở lại đây, ngôi nhà của nghệ nhân A Biu ở làng Plei Klech trở thành điểm sinh hoạt, hội tụ của nhiều nghệ nhân, nghệ sỹ cũng như du khách, trong đó có rất nhiều người trẻ tuổi. Họ đến đây để vừa được giao lưu, học hỏi, vừa được thưởng thức, chiêm nghiệm một miền văn hóa cổ sơ của Tây Nguyên đích thực.

Thỉnh thoảng hứng lên, A Biu lại cùng những người bạn của mình còn tổ chức trình diễn đêm chiêng. Bên ánh lửa bập bùng, những vòng xoang lúc nhịp nhàng, khoan thai, lúc rộn ràng, cuồng nhiệt. Còn tiếng chiêng, khi thì trầm lắng, thẳm sâu như lời tâm tình của đôi trai gái, khi thì vang vọng, trầm hùng như lời gọi bạn từ trên núi cao. Nhưng cũng có lúc đổ dồn như nước reo, lửa cháy, như tiếng sấm rền trong những cơn giông đầu hạ.

Dường như, khi đã hòa mình vào không gian đắm say và linh thiêng của cồng chiêng, thì cũng là lúc những sắc dân của vùng đất bazan như A Biu tự tin và hào sảng nhất. Bản sắc ấy, niềm tin ấy, ở đâu và thời đại nào cũng luôn là một giá trị đầy kiêu hãnh.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Những cánh chim không mỏi