Cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, cổ xưa khác, trong cuộc "va đập" đến nghiệt ngã với thị trường giải trí vàng thau lẫn lộn, đã có lúc cồng chiêng của người Mường chấp chới, đứng trước nguy cơ mai một.
Nhưng may thay, vẫn còn có nhiều nghệ nhân, nghệ sỹ ngày đêm dốc sức nhằm gìn giữ, bảo tồn để tiếng cồng, tiếng chiêng không bị lãng phai đi. Trong số đó phải kể đến nghệ nhân Nguyễn Thị Hình (SN 1944), người dân tộc Mường, ở xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Biểu tượng văn hóa mang tính tộc người
Ðối với người Mường nói chung và người Mường Hòa Bình nói riêng, cồng chiêng đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần. Bởi nó không chỉ đơn thuần là nhạc khí mà còn là biểu tượng mang tính tộc người.
Cuộc đời của người Mường từ khi sinh ra đến lúc về với cõi vĩnh hằng đều gắn chặt với cồng chiêng. Từ điệu chiêng chào đón một sinh linh ra đời cho đến tiếng cồng tiễn biệt người già hết cõi.
Rồi cồng chiêng theo những Phường Sắc bùa mang may mắn đầu năm đến tận cửa mỗi nhà; cồng chiêng chúc phúc cho những đôi uyên ương trong ngày cưới; cồng chiêng thành khẩn tiễn biệt những linh hồn từ xứ Mường người về xứ Mường ma; cồng chiêng thúc giục những bước chân đi trảy hội xuống đồng, gọi nhà nhà tới chia vui cơm mới, xua tan những điềm dữ trong cuộc sống và mang về những ước nguyện ấm no... Cứ thế, cồng chiêng đã được trao truyền qua nhiều thế hệ, trở thành nét văn hóa đặc trưng không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Mường.
Chính vì những yếu tố đó nên từ hàng trăm, hàng ngàn năm trước, người Mường đã xem cồng chiêng là máu thịt, là tiếng nói tâm linh, là nơi truyền tải niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày.
Hơn nữa, cồng chiêng còn là sợi dây gắn kết vững chắc giữa các thành viên trong gia đình, trong dòng tộc, trong các buôn làng trên mỗi bản mường. Trong mỗi nhịp chiêng hay mỗi điệu cồng luôn hàm chứa sức mạnh, niềm tin của con người với đấng siêu nhiên, niềm tin vào cộng đồng, vào cuộc sống để từ đó có thêm hy vọng về ngày mai tươi đẹp...
Nếu như cồng chiêng Tây Nguyên được coi là đặc trưng văn hóa nghệ thuật chung cho cả vùng Tây Nguyên với hơn mười tộc người, thì chiêng Mường chỉ là của một tộc người. Nhưng không vì thế mà cồng chiêng Mường trở nên đơn điệu, nghèo nàn, trái lại nó vô cùng đa dạng với nhiều kiểu kết hợp sáng tạo từ sự tương tác giữa các thanh âm.
“Báu vật sống” của bản làng
Thế nhưng, cũng như nhiều loại hình nghệ thuật dân gian, cổ xưa khác, trong cuộc "va đập" đến nghiệt ngã với thị trường giải trí vàng thau lẫn lộn, đã có lúc cồng chiêng của người Mường chấp chới, đứng trước nguy cơ mai một. Nhưng may thay, vẫn còn có nhiều nghệ nhân, nghệ sỹ thao thức, đắm đuối, trăn trở với loại hình nghệ thuật này, như nghệ nhân Nguyễn Thị Hình (SN 1944), người dân tộc Mường, ở xã Lâm Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Đối với người Mường ở Lâm Sơn nói riêng và Lương Sơn nói chung, nghệ nhân Nguyễn Thị Hình chả khác gì “báu vật sống” của bản làng. Bởi không chỉ là một nghệ nhân chơi chiêng lão luyện, bà còn có khả năng chế tác và chơi được nhiều loại nhạc cụ khác nhau của dân tộc Mường.
Được sinh ra và lớn lên giữa không gian văn hóa đậm đặc của người Mường, từ nhỏ, bà Hình đã nổi tiếng khắp vùng về đam mê âm nhạc. Bà ham đàn, ham sáo và ham tất thảy những thanh âm trầm bổng của cồng chiêng.
“Lúc nhỏ, cứ thấy buôn làng nào mở hội, có cồng chiêng là tôi lại theo chúng bạn đi xem. Nhiều khi phải trốn bố, trốn mẹ đi xem ấy chứ. Toàn đi bộ thôi. Có khi chân mỏi nhừ, bị gai rồi đá cào rách toạc cả máu mà vẫn đi. Không chịu quay về đâu. Rồi cứ nghe nhiều, nhìn các bậc cha chú, các bậc đàn anh chơi nhiều thì thuộc thôi, chứ lúc đó mình bé quá, cũng không ai dạy hết. Lớn lên một chút thì mới được các anh, các chú, các cụ trong làng dạy. Mình học chữ thì lâu, chứ học chiêng thì nhanh lắm!”, bà Hình kể.
Khi đến tuổi 17-18, bà Hình đã có thể chơi được hầu hết các bài chiêng cổ của dân tộc và vinh dự được tham gia vào đội chiêng của bản. Cũng từ đó, bà được thỏa niềm đam mê của mình với cồng chiêng. Cứ mỗi khi bản làng sắp có hội, bà cùng với mọi người trong đội lại tụ họp để cùng nhau tập luyện. Nhiều khi xã bên, bản bên, thậm chí là huyện bên, tỉnh bên kỷ niệm dịp trọng đại nào đấy mời, bà cùng anh em lại “mang chiêng đi đánh xứ người”.
Mà người Mường thì nổi tiếng quảng giao và hiếu khách. Mỗi bản, mỗi làng khi có hội đều mong được đón khách phương xa. Cứ thế, tháng này qua năm khác, bà Hình không nhớ mình đã lang thang qua bao nhiêu ngọn núi, con sông, bao nhiêu bản làng để tấu lên những thanh âm tối cổ của dân tộc mình.
“Vào mùa lễ hội, tôi gần như không mấy khi ở nhà. Không bản này thì làng khác mời. Đi cho vui thôi. Vừa có điều kiện giao lưu, kết thêm bạn bè, vừa học được những “ngón nghề” của những nghệ nhân đi trước. Bởi kiến thức về cồng chiêng nó mênh mông lắm. Mình biết chơi chiêng chưa đủ, phải biết chỉnh chiêng, gìn giữ, bảo quản cồng chiêng không để hư hỏng nữa chứ? Những cái đó mình đều phải học. Học hết người này đến người khác, ai có gì hay thì mình học”, bà Hình tâm sự.
Và cũng chính vì cái sự “ham học” ấy mà đến giờ nghệ nhân Nguyễn Thị Hình là một trong số rất hiếm người Mường ở xã Lâm Sơn nói riêng và huyện Lương Sơn nói chung thuộc và chơi được nhiều bản chiêng cổ của dân tộc mình.
Nỗ lực bảo tồn
Ngoài cồng chiêng, nghệ nhân Nguyễn Thị Hình còn là một trong số ít những người am hiểu về Mo Mường – một loại hình tín ngưỡng dân gian được tạo nên bởi ba thành tố chính: Môi trường diễn xướng, lời Mo và nghệ nhân Mo, hay còn gọi là thầy mo.
Theo bà Hình thì Mo Mường gắn liền với vòng đời của mỗi một con người. Khi sinh ra, bắt đầu cất tiếng khóc chào đời, đứa trẻ sẽ được nghệ nhân Mo (thầy mo) cầu cho hay ăn, chóng lớn. Đến tuổi trưởng thành, mỗi lúc đau yếu, thầy mo lại làm vía giải hạn, trừ tà ma... Khi nhắm mắt xuôi tay về với đất, thầy mo đóng vai trò là cầu nối tiễn hồn người chết sang thế giới bên kia.
Bên cạnh đó là giá trị về tâm linh, phong tục. Người Mường quan niệm chết không phải là hết. Sang cõi Mường Ma tối tăm ban đầu còn lạ lẫm, linh hồn cần thầy Mo dẫn dắt chỉ bảo mới biết ăn uống, nhận biết anh em họ hàng, nhận ruộng nương, nhà cửa, thuộc đường đi lối về phù hộ độ trì cho con cháu. Qua thầy Mo, người mất dặn con cháu phải biết sống nhân đạo, thương yêu, quý trọng mọi người; anh chị em trong nhà luôn phải biết nhường nhịn, cảm thông, tha thứ…
Ngoài ra, Mo Mường còn dạy con người về giá trị của lao động sáng tạo và hàm chứa nhiều giá trị khác về tư tưởng triết học, nghệ thuật biểu diễn, ngôn ngữ thể hiện…
Thế nhưng, cũng như cồng chiêng, Mo Mường luôn phải đối mặt với nguy cơ mai một. Với quyết tâm không thể để cho di sản văn hoá quý báu của dân tộc bị lãng phai đi, trong nhiều năm qua, bà Hình đã kiên trì, bền bỉ đi khắp các xóm bản, đến từng nhà, vận động người dân về ý nghĩa của việc giữ gìn bản sắc truyền thống. Bà giảng giải, nêu bật giá trị của Mo Mường và các loại nhạc cụ, đặc biệt là cồng chiêng trong mạch nguồn văn hóa của người Mường.
Bởi theo bà Hình thì cồng chiêng không chỉ là nhạc cụ mà còn là “linh hồn”, là “cầu nối” giữa con người với các đấng tối cao. Và nó không thể thiếu khi thực hiện các nghi thức thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các vị thần.
“Âm thanh của cồng chiêng nó giống như một thứ ánh sáng tâm linh, dẫn dụ, chỉ dạy người Mường biết cách để mở ra cánh cửa nội tâm. Đồng thời, tiếng cồng, tiếng chiêng cùng với niềm tin tín ngưỡng và các giá trị văn hóa khác nó chính là sợi dây kết nối cộng đồng bền chặt”, bà Hình tâm sự.
Không chỉ tuyên truyền, vận động, bà Hình còn nhiệt tình tham gia các lớp truyền dạy cách đánh cồng chiêng cho các thế hệ trẻ trong làng, trong xã, trong vùng. Học trò của già nhiều lắm, tuổi từ thiếu niên cho đến trung niên.
Ghi nhận những đóng góp to lớn đó, năm 2022, Chủ tịch nước đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú cho bà Nguyễn Thị Hình. Đó vừa là niềm tự hào của cá nhân bà, vừa là niềm tự hào của cộng đồng người Mường ở Lâm Sơn. Đồng thời, danh hiệu đó cũng là động lực để bà tiếp tục cống hiến cho cộng đồng, trong cuộc “chạy đua” với thời gian để níu giữ những báu vật văn hóa mang tính tộc người.
Bà Nguyễn Thị Tiến, Phó Trưởng phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lương Sơn, chia sẻ: “Việc khơi nguồn, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc của người Mường nói riêng và các dân tộc thiểu số khác là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi, nó không chỉ lưu giữ được những giá trị truyền thống, tránh được nguy cơ thất truyền, mà điều quan trọng hơn nữa là những giá trị ấy sẽ được neo giữ trong những tâm hồn lớp trẻ, để mai này song hành cùng họ đi đến tương lai. Thế nên, đóng góp của những nghệ nhân gạo cội như bà Nguyễn Thị Hình là vô cùng to lớn, bởi họ chính là những người “giữ lửa” cho văn hóa Mường”.
Cũng theo bà Tiến, mấy năm gần đây, Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lương Sơn đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Mường, như tổ chức lớp tập huấn kỹ năng trình tấu chiêng Mường; lớp tập huấn phổ biến, hướng dẫn các làn điệu dân ca, điệu múa dân tộc Mường; xây dựng Kế hoạch về bảo tồn và phát huy giá trị các Di sản văn hóa phi vật thể Mo Mường, trang phục dân tộc Mường, tiếng nói, chữ viết Mường…
Hy vọng rằng, với sự vào cuộc kịp thời, khẩn trương của các ngành các cấp, nhất là ngành văn hóa, cùng với sự tận tâm, tận lực của các nghệ nhân như bà Hình thì cồng chiêng hay các loại hình nghệ thuật truyền thống của người Mường sẽ không bị lãng phai.