Quy định 2 năm hành nghề liên tục mới được thành lập tổ chức hành nghề luật sư là không cần thiết với những người đã từng có thâm niên công tác trong các cơ quan pháp luật.
Điểm a khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định một trong những điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư: “Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất 2 năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này”. So với Luật Luật sư năm 2006 thì đây là quy định hoàn toàn mới mang tính ràng buộc điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư.
Quy định này sẽ rất cần thiết đối với những đối tượng bắt buộc phải qua khóa đào tạo luật sư và phải trải qua thời gian tập sự hành nghề luật sư. Tuy nhiên, với những đã từng là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, giảng viên chuyên ngành luật… đã có nhiều năm công tác, có kiến thức, kinh nghiệm lâu năm về pháp luật thì quy định này là khá cứng nhắc.
Luật sư tham gia tố tụng tại một phiên tòa
Cũng theo quy định này, luật sư trong thời gian liên tục làm việc ít nhất hai năm cho tổ chức hành nghề luật sư sẽ không bị hạn chế về số lượng hợp đồng lao động mà họ được tham gia ký kết với các tổ chức hành nghề luật sư, miễn với tư cách là người lao động, họ thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ đã cam kết với tổ chức hành nghề luật sư. Điểm a khoản 1 Điều 9 Luật Luật sư quy định “nghiêm cấm luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng có quyền lợi đối lập nhau trong cùng vụ án hình sự, vụ án dân sự, vụ án hành chính, việc dân sự, các việc khác theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, vì pháp luật không quy định theo hướng khống chế số lượng hợp đồng lao động luật sư được ký kết, nên sẽ là kẽ hở của pháp luật, tạo nên vướng mắc khi vận dụng vào thực tiễn.
Từ thực tế đó, để tránh những vướng mắc có thể xảy ra, sắp tới khi sửa đổi Luật Luật sư để bảo đảm tính thống nhất và tương thích với một số luật, bộ luật mà Quốc hội khóa XIII đã thông qua tại kỳ họp thứ 10, như Bộ luật Dân sự (sửa đổi), Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), Luật Tố tụng hành chính (sửa đổi), Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự… thì điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư quy định tại khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư cần được sửa đổi theo hướng loại trừ những trường hợp buộc phải có thời gian ít nhất hai năm liên tục làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức; quy định hạn chế việc luật sư cùng một lúc ký kết nhiều hợp đồng lao động với các tổ chức hành nghề luật sư, nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của khách hàng mà tổ chức hành nghề luật sư đó đã thỏa thuận.
Cụ thể, điểm a khoản 3 Điều 32 Luật Luật sư cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Luật sư thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư phải có ít nhất hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân theo hợp đồng lao động cho cơ quan, tổ chức theo quy định của Luật này, không bao gồm những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật này, mà thời gian giữ chức danh tố tụng; chức danh chuyên môn hoặc được phong học hàm, học vị ít nhất từ 5 năm trở lên. Trong thời hạn hai năm hành nghề liên tục làm việc theo hợp đồng lao động, luật sư chỉ được ký kết hợp đồng lao động với một tổ chức hành nghề luật sư”.