Bạn đọc

Vụ “em gái của 3 liệt sỹ kiện đòi đất” tại Kiên Giang: Chờ phán quyết của HĐXX phúc thẩm

K.Lâm 19/05/2023 06:30

Ngày 9/12/2021, Hội đồng thẩm phán TANDTC đã có Quyết định giám đốc thẩm số 68/2021/DS-GDT hủy Bản án phúc thẩm của TAND Cấp cao tại TP HCM và Bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Kiên Giang xét xử vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa bà Lâm Thị Chính (nguyên đơn) và bà Nguyễn Thị Bích Liên (bị đơn). Tháng 11/2022, vụ án đã được TAND tỉnh Kiên Giang xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

Kháng nghị vì bản án sơ thẩm, phúc thẩm có nhiều sai sót

Theo đơn khởi kiện của bà Lâm Thị Chính (xã Dương Tơ, TP. Phú Quốc, Kiên Giang), diện tích đất tranh chấp rộng hơn 11.000m2 tại ấp Suối Đá, xã Dương Tơ nằm trong diện tích hơn 40.000m2 đất do Huyện ủy Phú Quốc giao cho bố mẹ bà (cụ Mười, cụ Huê) sử dụng từ năm 1975 do gia đình có 3 liệt sỹ. Sau đó, UBND huyện Phú Quốc đã mượn một phần đất để xây dựng lò gốm. Nhưng do lò gốm hoạt động không hiệu quả nên UBND huyện đã sang nhượng lò gốm cho ông Huỳnh Văn Mang.

Từ năm 1992 đến năm 1996, ông Mang cho người chặt phá cây trên đất nên bà Chính có đơn khiếu nại. Tuy nhiên, UBND huyện Phú Quốc vẫn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) cho ông Mang. Đến năm 2004, ông Mang sang nhượng đất cho Công ty Liên Thành. Sau đó, Công ty này tiếp tục chuyển nhượng đất cho bà Nguyễn Thị Bích Liên, rồi bà Liên chuyển nhượng cho anh Nguyễn Việt Dũng

Cho rằng việc ông Mang được cấp GCN là không đúng quy định vì đất có tranh chấp, bà Chính khởi kiện yêu cầu được công nhận quyền sử dụng đất đối với 11.000m2 đất thuộc thửa 218, tờ bản đồ số 01, ấp Suối Đá; hủy GCNđứng tên ông Mang; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Mang với Công ty Liên Thành; Hủy GCN của Công ty Liên Thành; hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa Công ty Liên Thành với bà Liên; hủy GCN của bà Liên; Hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Liên với anh Dũng…

Vào năm 2020, cả HĐXX sơ thẩm của TAND tỉnh Kiên Giang và HĐXX phúc thẩm của TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh đều đã tuyên bác yêu cầu khởi kiện của bà Chính; buộc bà Chính phải giao trả anh Dũng hơn 11.000m2 đất và phải di chuyển tài sản, vật kiến trúc…(trong đó có hai ngôi mộ rộng hơn 9m2) ra khỏi phần đất tranh chấp.

Đến đầu tháng 4/2021, bà Chính đã bị cơ quan thi hành án dân sự cưỡng chế thi hành bản án, buộc trả đất cho anh Dũng (riêng hai ngôi mộ chưa cưỡng chế di chuyển).

Tuy nhiên, do nhận thấy 2 bản án trên có nhiều sai sót nên vào tháng 11/2021, Chánh án TAND Tối cao đã có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị Hội đồng thẩm phán (HĐTP) TANDTC xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án sơ thẩm và phúc thẩm

Vào tháng 12/2021, HĐTP TANDTC Tối cao đã chấp nhận kháng nghị, tuyên hủy bản phúc thẩm số 677 nêu trên và bản án sơ thẩm số 18/2020/DS-ST của TAND tỉnh Kiên Giang, đồng thời chỉ ra hang loạt những thiếu sót trong hai bản án này.

Có căn cứ xác định phía nguyên đơn được giao đất năm 1975

Về nguồn gốc đất tranh chấp, HĐTP nhận định, qua văn bản của Thường vụ huyện ủy Phú Quốc năm 1996 và Công văn số 320-CV/HU ngày 6/3/2017 của Huyện ủy Phú Quốc thì có căn cứ xác định việc Huyện Phú Quốc giao đất cho cụ Lâm Văn Mười và cụ Trần Thị Huệ (bố, mẹ bà Chính) để canh tác từ năm 1975.

Năm 1985, huyện bố trí cho Xí nghiệp Gốm sứ xây dựng lò gốm trên phần đất trên. Năm 1993, Xí nghiệp giải thể và UBND huyện Phú Quốc bán đấu giá toàn bộ Xí nghiệp cho ông Mang.

Tại biên bản bàn giao tài sản của Xí nghiệp cho ông Mang thể hiện tài sản bàn giao là nhà xưởng, máy móc, lò nung, xe….không có nội dung giao đất mà chỉ ghi (riêng phần đất sản xuất sẽ giao nhận thực tế sau)

Nhận định về quá trình quản lý đất đai, Quyết định giám đốc thẩm nêu rõ, năm 1995, ông Mang có đơn xin cấp hơn 27.000m2 đất, trong đó có diện tích đất đang tranh chấp, nên bà Chính khiếu nại. Năm 1998, UBND huyện Phú Quốc cấp GCN khi đang có tranh chấp chưa được giải quyết là không đúng với Luật đất đai 1993.

Sau khi bà Chính khiếu nại, năm 1999, UBND huyện Phú Quốc có quyết định không công nhận khiếu nại; Thanh tra tỉnh Kiên Giang có quyết định công nhận Quyết định giải quyết khiếu nại của UBND huyện Phú Quốc, trong khi diện tích đất tranh chấp đã có GCN là không đúng thẩm quyền theo quy định của Luật đất đai 1993.

Từ vi phạm về giải quyết tranh chấp nêu trên, HĐTP nhận định, việc Tòa cấp sơ thẩm và Tòa cấp phúc thẩm căn cứ vào Quyết định giải quyết không đúng thẩm quyền của UBND huyện Phú Quốc và Thanh tra tỉnh Kiên Giang để giải quyết vụ án và bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Chính là không có căn cứ, không đảm bảo quyền lợi của bà Chính.

Đồng thời, tại Quyết định giải quyết khiếu nại năm 1999, UBND huyện Phú Quốc nêu: bà Chính muốn được giao quyền sử dụng đất 0,65ha (phần đất được thu hoa lợi để sống và thờ phụng bố đẻ) thì phải lập thủ tục đề nghị giao đất theo quy định. Nếu muốn giao thêm diện tích đất để canh tác thì sẽ được UBND huyện xem xét giao đất tại vị trí khác ngoài thửa đất 0,65ha đang tranh chấp”.

Nhưng sau khi có Quyết định trên thì bà Chính có đơn đề nghị giao thêm đất hay không, đã được cơ quan có thẩm quyền xem xét hay chưa đều chưa được Tòa cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác minh làm rõ để đảm bảo quyền lợi cho bà Chính.

Về hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bị đơn- bà Nguyễn Thị Bích Liên với anh Nguyễn Việt Dũng, HĐXX giám đốc thẩm khẳng định, hợp đồng này được công chứng, chứng thức ngày 6/1/2020 trong khi diện tích đất chuyển nhượng có tranh chấp, đang được TAND tỉnh Kiên Giang thụ lý, giải quyết. Hợp đồng này đã vi phạm điều kiện chuyển nhượng nhưng Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm vẫn công nhận là không có căn cứ.

Chính vì vậy, HĐTP đã chấp nhận kháng nghị, quyết định hủy Bản án sơ thẩm, Bản phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án về TAND tỉnh Kiên Giang để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định.

HĐXX sơ thẩm (lần 2) phán quyết ra sao?

Xét xử sơ thẩm (lần 2) vụ kiện trên vào ngày 23/11/2022, TAND tỉnh Kiên Giang đã một lần nữa bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

HĐXX cho rằng ông Lâm Văn Mười (bố bà Chính) chỉ là người được Huyện ủy tạm giao ở quản lý, trông coi và được thu hoạch hoa lợi từ cây trồng có sẵn trên đất, chứ không phải ông Mười được Huyện ủy giao cấp đất như bà Chính trình bày. Năm 1998, UBND huyện Phú Quốc đã tạm thời cấp GCN (giấy xanh) mà chưa cấp GCN chính thức (bìa đỏ). Do bà Chính tranh chấp, UBND huyện Phú Quốc và Chánh Thanh tra tỉnh Kiên Giang (được Chủ tịch UBND tỉnh ủy quyền giải quyết lần 2) ra Quyết định giải quyết tranh chấp (công nhận ông Mang sử dụng hơn 13.500m2 ; bà Chính được sử dụng hơn 5.400m2) là đúng thẩm quyền theo quy định tại điều 38 Luật đất đai 2003 và Thông tư liên tịch 02/1997/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC. Quyết định trên có hiệu lực và thi hành xong. Trên cơ sở này, UBND huyện Phú Quốc đã cấp GCNchính thức cho ông Mang và bà Chính.

Ngay sau khi có bản án trên, phía bà Chính đã có đơn kháng cáo toàn bộ bản án, đồng thời có đơn kiến nghị đến nhiều cơ quan cho rằng, những nhận định của HĐTP TANDTC đã không được tôn trọng. Đồng thời, bà Chính cũng cho rằng, việc giải quyết tranh chấp đất đai vào năm 1999-2000 UBND huyện Phú Quốc và Thanh tra tỉnh Kiên Giang không chỉ sai thẩm quyền (làm thay Tòa án) mà còn không đúng với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với gia đình có công với cách mạng, không đúng với Quyết định số 13/HĐBT năm 1980 (ruộng đất đã chia cấp cho thương binh, gia đình liệt sỹ, bộ đội tại ngũ, cán bộ hưu trí, gia đình có công với cách mạng thì tiếp tục sử dụng, không thu hồi, chủ cũ không được đòi lại”) và Luật đất đai 2003 (đất khai hoang, phục hóa và không có tranh chấp thì được xem xét hợp thức).

Đã vậy, việc cấp GCN cho ông Mang năm 1998 và năm 2003 có dấu hiệu khuất tất, sai phạm vì ông Mang chỉ mua hóa giá lò gạch chứ không được giao đất; bản thân UBND huyện Phú Quốc đã từng có văn bản trả lời Tòa rằng, hồ sơ cấp GCN cho ông Mang đã “bị thất lạc” và “ Không xác định được có hay không việc UBND huyện Phú Quốc sang bán đất (lò gốm) cho ông Huỳnh Văn Mang”....

Hiện, vụ kiện đã được TAND Cấp cao tại TP Hồ Chí Minh thụ lý và chuẩn bị đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Vụ “em gái của 3 liệt sỹ kiện đòi đất” tại Kiên Giang: Chờ phán quyết của HĐXX phúc thẩm