Quy mô nền kinh tế AI của Việt Nam dự kiến đạt 120 - 130 tỷ USD vào năm 2040. Nếu được khai thác hiệu quả, AI có thể giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nhanh chóng và trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Báo cáo của Deloitte (2025) cho thấy, có đến 93% doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam đã ứng dụng Trí tuệ nhân tạo (AI) vào vận hành, giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu khu vực về triển khai AI trong kinh doanh.
Trong số đó, 92% doanh nghiệp được khảo sát ghi nhận AI và các công cụ số giúp tăng năng suất, 80% doanh nghiệp cho biết các AI đã giúp doanh nghiệp cắt giảm chi phí, 91% cho biết AI giúp nâng cao hiệu quả tương tác với khách hàng, trong khi 73% tin rằng AI góp phần thu hẹp khoảng cách giữa doanh nghiệp nhỏ và lớn. Không dừng lại ở đó, AI còn thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hình thành các mô hình kinh doanh mới.
Theo Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, quy mô nền kinh tế AI của Việt Nam dự kiến đạt 120 - 130 tỷ USD vào năm 2040. Nếu được khai thác hiệu quả, AI có thể giúp Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nhanh chóng và trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045.
Bên cạnh đó, AI đồng thời có vai trò khai thác và biến dữ liệu thành nguồn lực kinh tế, tạo động lực cho phát triển thị trường dữ liệu, phát triển kinh tế dữ liệu. Thị trường trung tâm dữ liệu Việt Nam được định giá 654 triệu USD vào năm 2024 và dự kiến sẽ đạt 1,75 nghìn tỷ USD vào năm 2030, tăng trưởng ở tốc độ CAGR (tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm) là 17,93% (Research and Markets, 2025).
Đây có thể xem là tiềm năng khai thác và sử dụng AI đóng góp mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam. AI biến dữ liệu thành sản phẩm, dịch vụ và tri thức, thúc đẩy kinh tế số (thông qua thương mại điện tử, fintech, logistics thông minh, y tế số…).
Với tỷ trọng trong GDP còn khá thấp, kinh tế số Việt Nam được xem là còn nhiều dư địa tăng trưởng. Thu hút đầu tư và tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực AI sẽ là yếu tố quan trọng để Việt Nam đạt được mục tiêu kinh tế số đóng góp 30% GDP vào năm 2030, tăng từ khoảng 12% vào năm 2023.
Để khai thác có hiệu quả các ứng dụng của AI, đảm bảo rằng công nghệ này không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần xây dựng một xã hội công bằng, toàn diện và bền vững, nhóm nghiên cứu của Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương cho rằng, cần tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, cần có các chương trình, đề án nghiên cứu chuyên sâu về sự phát triển của AI và tác động của nó đến sự thay đổi về mô hình tăng trưởng kinh tế nói chung và của Việt Nam nói riêng; đánh giá tác động của AI đến các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế để từ đó đề ra được những chủ trương, chính sách nhằm tận dụng được các cơ hội mà AI đem lại; đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực có thể có, đặc biệt đối với lực lượng lao động.
Hai là, tiếp tục cập nhật, cụ thể hóa Chiến lược quốc gia về AI đến năm 2030, gắn với các ngành mũi nhọn như sản xuất, tài chính - ngân hàng, logistics, nông nghiệp và y tế. Trong đó, cần xây dựng hành lang pháp lý về quản lý, khai thác dữ liệu và ứng dụng AI đảm bảo an toàn, bảo mật và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Cần đặt AI vào trung tâm của chính sách phát triển kinh tế - công nghệ quốc gia, không chỉ như một ngành riêng lẻ, mà là nền tảng cho mọi lĩnh vực, từ giáo dục, y tế, tài chính đến nông nghiệp và chính phủ số.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghệ cao nói chung, lĩnh vực AI nói riêng thông qua việc đưa AI và khoa học dữ liệu vào chương trình đào tạo phổ thông, đại học và sau đại học; liên kết các cơ sở đào tạo trong nước với các trường đại học, viện nghiên cứu hàng đầu thế giới để chuyển giao tri thức, công nghệ và phát triển tài năng; xây dựng các chương trình đào tạo lại kỹ năng (reskilling) và nâng cao kỹ năng (upskilling) cho lao động trong các ngành dễ bị thay thế bởi AI.
Bốn là, tiếp tục xây dựng, nâng cấp hạ tầng số, hạ tầng kỹ thuật cho phát triển AI. Phát triển hạ tầng số (mạng, cloud, HPC) và hạ tầng dữ liệu (kho dữ liệu mở, chuẩn hóa, liên thông) là nền tảng để AI được ứng dụng rộng rãi. Việt Nam cần vừa đầu tư công, vừa huy động khu vực tư nhân để tạo ra hệ sinh thái dữ liệu - tính toán bền vững.
Năm là, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế về AI. Trong bối cảnh các nước lớn đẩy nhanh việc hoàn thiện hành lang pháp lý và các quy chuẩn, tiêu chuẩn sử dụng AI, Việt Nam cần chủ động tham gia mạng lưới AI toàn cầu, đóng vai trò chủ động trong các diễn đàn, hiệp định về AI và dữ liệu xuyên biên giới, xây dựng các khu công nghệ, trung tâm R&D AI để hấp dẫn tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam.