Hiện nay, tại Việt Nam có khoảng 7 - 10% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản bị vô sinh, hơn 1 triệu cặp vợ chồng gặp phải các vấn đề vô sinh, hiếm muộn.
Vô sinh, hiếm muộn là căn bệnh nguy hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư, bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ vô sinh cao trên thế giới.
Theo bác sĩ Trần Nhật Thăng - Phụ trách khoa Phụ Sản, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, 30% trường hợp vô sinh nguyên nhân từ người chồng, 30% do vợ, 30% từ cả hai và 10% không rõ nguyên nhân.
Nguyên nhân hay gặp ở nữ là do tắc hai vòi tử cung, hội chứng buồng trứng đa nang, lạc nội mạc tử cung. Bệnh nhân không rụng trứng do bẩm sinh, tuổi cao, hậu quả của phẫu thuật hoặc điều trị hóa chất. Đời sống gặp áp lực, căng thẳng, bất thường đường sinh dục... gây rối loạn quá trình rụng trứng.
Trong khi đó các nguyên nhân gây vô sinh nam giới phải kể đến đó là: Yếu tố tình dục; nhiễm trùng hệ tiết niệu - sinh dục: viêm tinh hoàn - mào tinh hoàn, viêm niệu đạo, viêm tuyến tiền liệt…, những bất thường bẩm sinh; các yếu tố mắc phải như nghiện rượu, hút thuốc lá, sau hoá trị liệu, nhiễm độc tia xạ…; giãn tĩnh mạch tinh; các rối loạn về nội tiết tố: suy sinh dục (tại tinh hoàn và ngoài tinh hoàn), thiếu FSH đơn thuần, bài tiết nội tiết quá mức (sản xuất quá nhiều androgen, bài tiết estrogen quá mức).
Tư vấn cho các trường hợp vô sinh, hiếm muộn. Ảnh minh họa
TS.BS Hoàng Thị Diễm Tuyết - Giám đốc Bệnh viện Hùng Vương cho biết, khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc điều trị hiếm muộn ở Việt Nam là có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn không rõ nguyên nhân.
“Hiện nay việc điều trị hiếm muộn của chúng ta chủ yếu là điều trị nguyên nhân, nhưng có khoảng 10% cặp vợ chồng hiếm muộn không rõ nguyên nhân hay những nguyên nhân không điều trị được. Vì thế việc điều trị hiếm muộn hiện nay chủ yếu là can thiệp bằng kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung và thụ tinh trong ống nghiệm”, bác sĩ Tuyết chia sẻ.
Sau hơn 20 năm thực hiện phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, hiện cả nước có 24 trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm. Tỷ lệ thành công đạt từ 40 đến 60%, bằng với các nước trên thế giới.
Cùng với đó, sự phát triển vượt trội trong điều trị hiếm muộn, vô sinh và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, giấc mơ có con của nhiều cặp vợ chồng đã được thực hiện. Việc cập nhật những tiến bộ của y học thế giới về điều trị vô sinh, hiếm muộn, các bệnh viện tại Việt Nam cũng đã tập trung vào việc đầu tư, nâng cấp các trang thiết bị hiện đại, tạo nên những bước phát triển cả về số lượng và chất lượng điều trị.
Với con số khoảng 1 triệu cặp vợ chồng gặp phải các vấn đề vô sinh hiếm muộn, nhu cầu điều trị cho các bệnh nhân này rất lớn. Tuy nhiên, với các phương pháp hỗ trợ sinh sản hiện nay, những cặp vợ chồng hiếm muộn phải chi trả mức phí từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng để chữa trị, tìm con.
Chi phí này không phải là cao so với các nước trên thế giới nhưng lại đang quá mức so với thu nhập bình quân của người Việt Nam. Đây là rào cản khiến không ít gia đình khó khăn ngậm ngùi chấp nhận cảnh không có con vì không có tiền chạy chữa.