Tâm điểm dư luận

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người thầy vĩ đại của ngành Tòa án nhân dân

Trung Nguyễn 11/09/2025 - 17:28

Trong giai đoạn đổi mới hệ thống Tòa án hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng lại càng có giá trị, là kim chỉ nam dẫn đường để công cuộc cải cách tư pháp của đất nước ta đạt được nhiều thành tựu mới.

“Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư”

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C-SL thiết lập các Toà án quân sự, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Toà án nhân dân ngày nay.

Nhấn mạnh vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong chính quyền nhân dân, Người khẳng định: “Tư pháp là cơ quan trọng yếu của chính quyền".

mau-muc-1-.jpg
Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong thư gửi Hội nghị công tác tư pháp tháng 02 năm 1948, Người viết: “cán bộ tư pháp phải tuyệt đối trung thành”, “các bạn là những người phụ trách thi hành luật pháp, lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao tấm gương “phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” cho nhân dân noi theo”.

Đối với người cán bộ tư pháp, Người không chỉ đòi hỏi phải chí công, vô tư mà còn phải biết phụng công, thủ pháp. Cán bộ tư pháp là những người phụ trách thi hành pháp luật, nên lẽ dĩ nhiên, phải hết lòng vì cái chung, vì nhân dân mà bảo vệ pháp luật, bảo đảm sự công bằng, công minh trong việc áp dụng pháp luật với tinh thần cao nhất. Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư là những tiêu chuẩn làm nên bản chất mới của cán bộ tư pháp, suy rộng ra là của cả nền tư pháp mới. Người đã từng căn dặn người cán bộ tư pháp phải công bằng, không được lẫn lộn giữa công và tội, có công thì được thưởng, có lỗi thì phải bị phạt và không vì công mà quên lỗi, không vì lỗi mà quên công. Và Người quan niệm: Công tác tư pháp suy cho cùng là “ở đời và làm người”.

Trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Người nhấn mạnh: “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng…”. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối, chính sách của Chính phủ. Muốn làm tốt công tác xử án thì ngoài việc phải liêm khiết, trong sạch, người cán bộ Tòa án phải hiểu được tâm tư, nguyện vọng, khúc mắc của người dân, qua đó sẽ giúp dân, cảm hóa dân và học ở dân những đức tính tốt đẹp, những kinh nghiệm nhằm giúp cho công tác xét xử tốt hơn.

Năm 1950, trong không khí khẩn trương chuẩn bị cho Chiến dịch Biên giới, lớp nghiên cứu chính trị, pháp lý cho gần 100 cán bộ tư pháp từ Liên khu 5 trở ra đã được tổ chức tại chiến khu Việt Bắc. Bác Hồ đã đến thăm và căn dặn nhiều điều quý báu. Sau khi phân tích sự khác biệt giữa Tòa án của ta và của đế quốc, Bác nói: “Xét xử đúng là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”.

Quan điểm chỉ đạo nêu trên của Bác đã mở đầu cuộc Cải cách tư pháp lần thứ nhất ở nước ta trên cơ sở quan điểm tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, tăng cường cán bộ công – nông, đẩy mạnh việc học tập chủ nghĩa Mác – Lê-nin, rèn luyện “óc pháp lý mới”. Sau đó, Bộ Tư pháp đã trình lên Chủ tịch Hồ Chí Minh dự án Sắc lệnh Cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng với những mục đích rất rõ ràng là bộ máy tư pháp cần được “dân chủ hóa”, “để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn”, “thủ tục tố tụng cần được hợp lý và giản dị hơn”.

Với ý nghĩa đó, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp non trẻ của nước ta.

Ngày 22/3/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến dự và nói chuyện với Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ 10. Bác căn dặn: Cán bộ Tòa án cần góp phần thực hiện đúng đắn nền pháp chế XHCN của nước ta, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, quyền lợi của nhân dân; đồng thời phải ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của nhân dân, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc... Người còn chỉ rõ, ngành Tòa án muốn làm tốt cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chính quyền, với các cơ quan tư pháp khác để hoàn thành nhiệm vụ của Ðảng và nhân dân giao cho.

Xây dựng nền tư pháp dân chủ gần dân, của dân, do dân và vì dân

Hơn hai tháng sau khi tuyên bố độc lập, ngày 23/11/1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 64-SL về việc thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và một Toà án đặc biệt có nhiệm vụ giám sát và xét xử các sai phạm của các nhân viên từ trong các Ủy ban nhân dân các cấp đến cơ quan cao nhất của chính quyền (các Bộ).

Bốn ngày sau khi ký Sắc lệnh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt và Toà án đặc biệt, ngày 27/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ký tiếp Sắc lệnh ấn định hình phạt “Tội đưa và nhận hối lộ”. Đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai, và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.

Bắt nguồn từ tư tưởng yêu nước, thương dân, sau khi vừa giành được chính quyền dân chủ nhân dân, mặc dù phải đối phó thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành nhiều thời gian cho việc quy định chế định “tư pháp bảo trợ”, mà thực chất là trợ giúp pháp lý hiện nay - để hoạt động điều tra, xét xử tội phạm được bảo đảm tiến hành như quy trình tố tụng của các quốc gia văn minh, tiến bộ khác. Tư tưởng này xuất phát từ yêu cầu bảo vệ uy tín của Nhà nước dân chủ nhân dân non trẻ trong nhiệm vụ bảo vệ người dân, tránh oan sai, lạm quyền hoặc ức hiếp dân, cũng như không để lọt tội phạm.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám thành công, nhằm bảo đảm có luật sư thực hiện bào chữa cho bị can, bị cáo trước các phiên xét xử tại Toà án của chế độ dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 10/SL ngày 10/10/1945 về việc duy trì tổ chức luật sư cũ. Hiến pháp 1946 (Điều 67) quy định: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Ngay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký các Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946, trong đó có quy định về chế độ “Tư pháp bảo trợ”: “nếu bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư hoặc một bào chữa viên để bào chữa”. Tại Sắc lệnh số 113/SL ngày 28/6/1946 về lệ phí và án phí (Điều 7) cũng quy định “nguyên cáo hoặc bị cáo trong một việc hộ có quyền xin tư pháp bảo trợ”. Như vậy, chế định bảo trợ tư pháp cũng được áp dụng đối với các vụ việc dân sự do Tòa xử.

Sắc lệnh số 217/SL ngày 22/11/1946 quy định về việc các vị Thẩm phán đệ nhị cấp (tỉnh và khu) có bằng Luật khoa cử nhân có thể ra làm luật sư với các điều kiện thời gian cụ thể (nếu có 3 năm thực hành chức vụ tư pháp trước các Toà án không phải tập sự, chưa đủ 3 năm phải tập sự luật sư thêm; nếu là Thẩm phán tại một quản hạt Toà thượng thẩm, mới thôi chức 1 năm thì không được mở Văn phòng luật sư ở quản hạt đó, vì vị Thẩm phán này vẫn có thể còn ảnh hưởng trong địa hạt và đặc biệt, không bị liên đới đến những vụ phải xử phúc thẩm và án kéo dài). Do số lượng luật sư còn quá nhỏ không đủ đáp ứng nhu cầu nên Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 và Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 đã quy định về việc mở rộng chế độ bào chữa, cho phép các bị can, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực trước các Toà án (trừ Toà án binh tại mặt trận).

Những quy định trên cho thấy, tư pháp bảo trợ có vị trí rất quan trọng trong nền tư pháp dân chủ, vì ngay trong những ngày đầu tiên của một quốc gia mới tuyên bố độc lập, vấn đề tư pháp bảo trợ của quy trình tố tụng đã được quy định rất cụ thể, như “bản chất ruột” của nền tư pháp dân chủ gần dân, thân dân, của dân, do dân và vì dân.

Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, tuy nước còn nghèo, dân còn đói, nhưng việc Hồ Chủ tịch có chủ trương lấy công khố chi trả cho người tham gia bào chữa, miễn phí tư pháp cho đương sự là điều cần làm và đã cố làm để mọi tầng lớp nghèo khổ khi có sự vụ gắn với “pháp đình” đều có thể nhờ cậy vào công lý qua pháp luật. Có như thế, người dân mới sẵn sàng đề đạt, kháng cáo khi thấy vụ án còn chưa được xem xét, xử đúng và chưa tâm phục khẩu phục, từ đó nền tư pháp nước nhà mới là hiện thân của cán cân công lý. Tư tưởng và nội dung tư pháp bảo trợ của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa, thể hiện kết quả của cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân loại vì công lý và công bằng trước pháp luật của mọi tầng lớp dân cư, của các quyền dân sinh, dân chủ và dân quyền.

Trải qua quá trình lịch sử 80 năm, hệ thống Toà án nhân dân đã được hình thành và không ngừng lớn mạnh gắn liền với công lao của Hồ Chủ tịch. Những tư tưởng tiến bộ của Hồ Chí Minh về một nền tư pháp hiện đại đã được quán triệt trong việc xây dựng hệ thống Tòa án cách mạng Việt Nam. Hiệu quả hoạt động của Tòa án trong suốt quá trình cách mạng đã chứng minh giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống Tòa án. Trong giai đoạn đổi mới hệ thống Tòa án Việt Nam hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về tư pháp nói chung và Tòa án nói riêng lại càng có giá trị, là kim chỉ nam dẫn đường để công cuộc cải cách tư pháp của đất nước ta đạt được nhiều thành tựu mới.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người thầy vĩ đại của ngành Tòa án nhân dân