Trong những chuyến lang bang ngược miền trời tột bắc, tôi đã đôi lần leo dốc chín khoanh để rồi chạm vào Mã Pí Lèng - một trong “tứ đại đỉnh đèo” của Tây Bắc, Việt Nam.
Năm nay, khi ông trời vừa châm lửa hoa đào trên đỉnh núi, tôi lại ngược cổng trời Quản Bạ lên với cao nguyên đá Đồng Văn, để được hòa mình vào không khí chợ phiên ngày cận tết, để được nâng bát rượu ngô rồi chênh chao theo những điệu khèn…
Sặc sỡ chợ phiên
Dọc theo quốc lộ 4C, ngay từ phía TP. Hà Giang, hương vị tết đã dậy lên qua những bộ trang phục sặc sỡ của đồng bào Mông, Dao, Tày, Giáy, Lô Lô. Năm nay, dường như xuân đến sớm. Trên những nương đá tai mèo rợn ngợp dựng trước đất trời cao, thỉnh thoảng lại bất chợt hiện lên những thân đào rêu mốc, xù xì, cành dày đặc nụ kiêu hãnh bung nở giữa hoang hoải màu đá thâm trầm và lạnh lẽo. Từ khắp các bản làng, từng đoàn người gùi mang măng, khoai, sắn, gà, lợn, đồ thổ cẩm… dũi lút vào mây tìm đường xuống chợ.
Chỉ một lần lạc vào cái phiên chợ Yên Minh, Quản Bạ, Mèo Vạc ngày cận Tết, mới thấy cái hương vị hoang sơ khoáng đạt của người vùng cao nó quyến rũ như thế nào. Người đến từ những đỉnh núi xa, họ uống vài chén rượu, chao nghiêng người leo núi như những cánh đại bàng. Họ xuống chợ, không chỉ bán mua, trao đổi những sản vật, mà còn giao lưu, hò hẹn, để tạm quên đi những lam lũ đời thường, để ai muốn nhớ ai thì nhớ, ai nợ tình ai thì trả. Thậm chí, ai với ai bị đau đáu món nợ thịt da tính dục thì tìm đến nhau cho thoả nỗi buồn ngăn sông cấm chợ. Hình như, người ta biết rất rõ, ngoài cuộc sống này có quá nhiều âu lo, quá nhiều cái vô thức nó đeo bám, nên thỉnh thoảng đồng bào lại mở ra phiên chợ để giải tỏa những ẩn ức ái tình!
Nhưng, vui nhất, háo hức nhất có lẽ là những đứa trẻ chạm tuổi 9- 10 được theo bố mẹ đi chợ cuối năm. Bởi, đây là dịp mà chúng không phải chân trần, thịt da ngoang nguếch đeo gùi từng nắm đất bỏ vào hốc đá giúp mẹ trồng trỉa lúa ngô trên những mảnh nương khô khát, hay không phải trông em, không phải gà gật bên nồi nấu rượu. Chúng được tự do vui đùa trong thoáng chốc. Thế nào chúng cũng được mẹ mua cho vài thanh kẹo mút, vài nắm bỏng ngô, hay tấm áo tà pủ mới, tấm khăn áo sặc sỡ với những tua rua đỏ như trái cầu kén rể.
Chợ phiên cuối năm, không khí như ngày hội, khắp nơi đều sặc sỡ sắc màu xanh, đỏ, tím, hồng của váy áo, nhìn xa như một vườn hoa di động. Ba thứ đặc sản không thể thiếu ở mỗi phiên chợ vùng cao là “lợn cắp nách”, “gà chạy bộ” và rượu ngô men lá. Nếu như rượu cũng được bà con dân bản mua khá nhộn nhịp thì “lợn cắp nách”, “gà chạy bộ” gần như tuyệt đối do tư thương mua buôn về bán lại tại chợ huyện hay chuyển về miền xuôi.
Trong khi các bà, các mẹ tất bật sắm sửa nhu yếu phẩm cho ngày tết như mắm, muối, mì chính, bánh kẹo, đôi dép mới… thì các thiếu nữ lại say mê lựa chọn vải thổ cẩm, áo, chỉ màu, gương lược và đôi hộp phấn son nho nhỏ. Đám thanh niên mới lớn thì tập trung quanh hàng băng đĩa và điện thoại di động chọn mua những đĩa nhạc sôi động nhất, tải những bài hát “hot” nhất về điện thoại của mình.
Người ta bảo rằng, Tết của người vùng cao đến sớm hơn tết miền xuôi. Có lẽ tại ông trời châm lửa, thắp đỏ cho hoa đào theo cái cách châm từ trên đỉnh núi cao, châm dần xuống chân núi, xuống gò đồi trung du, rồi mới về đồng bằng châu thổ bãi bồi. Lưỡi khí xuân liếm đến đâu, hoa đào bung sắc tới đó. Xuân vùng cao bao giờ cũng đến sớm. Người Hà Nội vừa mới rục rịch lo sắm tết; thì người vùng cao đã giết dê, giết lợn, giết bò… ăn với nhau rất nhiều bữa tiệc núi rồi.
Thiếu nữ Lô Lô rủ nhau đi chơi xuân
Nhấp chén rượu sóng sánh, Sùng Chứ Dềnh, nhà ở bản Thèn Pả, Đồng Văn, cất giọng ề à kể rằng, mấy năm gần đây, bà con thường ăn tết to, tổ chức lễ hội thật vui, không còn kham khổ như ngày trước. Tại vì có con đường. Con đường Hạnh Phúc dài gần 400 kilomet chạy hiên ngang qua biển đá tai mèo, mở ra cuộc sống ấm no cho hơn tám vạn đồng bào sống phía sau cổng trời Quản Bạ. Con đường đã đánh thức, giác ngộ cả một miền đất mẹ mênh mông bị chìm khuất trong mây mù tự hồng hoang và không ít lầm lạc trong những khúc quanh của lịch sử, khi mà kẻ xấu đã xây dựng một bức tường đá và một cánh cổng gỗ nghiến án ngữ cổng Trời để lừa mị đồng bào.
Bài thơ biên tái cất lên từ đỉnh núi
Nếu so sánh văn hoa một chút thì Cao nguyên đá Đồng Văn là vầng trán kiêu hãnh và nhiều trăn trở của đất mẹ, thì trên vầng trán ấy, đường Hạnh Phúc như một sợi chỉ mỏng manh vắt ngang lưng chừng từ ngọn núi này sang ngọn núi khác, giống như một nếp nhăn. Sự hùng vĩ của thiên nhiên khiến người ta choáng ngợp và nhận ra rằng, nếu như đường Hồ Chí Minh là biểu tượng của lòng quả cảm, tinh thần yêu nước sâu sắc thì đường Hạnh Phúc là biểu hiện của tình đoàn kết các dân tộc, lý tưởng của tuổi trẻ miền Bắc vì hạnh phúc của đồng bào vùng sâu, vùng xa. Điều đó đã thôi thúc hàng ngàn, hàng vạn thanh niên đã mang khát vọng Nữ Oa đội đá vá trời để tham gia vào cuộc trường chinh lịch sử, mở ra con đường chạy giữa biển đá sau một thời gian dài bằng cả đời người.
Quả thật, kể từ khi có “con đường mơ ước” ấy, đời sống đồng bào đã bớt nhiều lần khốn khó. Hàng hóa dưới xuôi lên với Quản Bạ nhanh hơn, đầy đủ hơn; ngược lại vật phẩm, nông sản từ Quản Bạ cũng không bị tư thương ép giá như ngày trước. Hàng quán, phố xá cũng theo đường mọc lên, bọn trẻ đã biết đến hình dáng chiếc ô tô, xe máy…
Thế mới thấy được biết bao công sức của những lớp người đi trước đã đổ xuống để lập nên kỳ tích lẫm liệt tạo nên con đường Hạnh Phúc dựng sừng sững, rợn ngợp giữa đất trời cao. Hai triệu ngày phá đá của tuổi trẻ Việt Nam, đã thực sự là nhân cốt đánh thức vùng cao nguyên mênh mông muôn đời ngủ quên trong mây cao phía sau mấy cái cổng trời kia.
Xét ở một góc độ nào đó, Quản Bạ nói riêng và Cao nguyên đá Đồng Văn nói chung đúng là một bài thơ biên tái diệu vợi, khoáng đạt cất lên trên những đỉnh núi cao. Núi ủ trong mây mù, mây mù ôm cuốn lấy sông núi du mục bản làng nguyên sơ với vòi vọi thành quách đá. Đá mọc thành nương, thành rẫy, đá chạy vào cả sân nhà, gầm sàn, chạy vào cả trong giấc ngủ chập chờn, mộng mị của đồng bào. Xe đi ngoắt nghéo theo núi, hai bên đường, từng chồi đá cứ bật mầm lên tua tủa, ken dày và xám ngắt.
Mùa đông ở đây, dường như giá buốt hơn. Cái lạnh đủ sức len lỏi qua lớp áo khoác, tràn qua cả lớp tường trình đất dày cả mét để xâm vào da thịt. Những thân ngô mọc lên từ vốc đất người dân gom bỏ trong từng hốc đá, gặn chắt bao giọt mồ hôi đắng đót của bà con đã cho một mùa bội thu, hứa hẹn một cái tết đủ đầy.
Đứng từ cổng trời Quản Bạ, nơi có độ cao hơn 1.500m, nhìn về bốn phía chỉ thấy một màu xám lạnh đá tai mèo. Đá hiện hữu khắp nơi, song hành cùng đời sống con người. Đá vừa là bạn, vừa là “đối thủ” của đống bào trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống ấm no.
Ngay gần cổng chợ, mặc xe máy chạy rèo rèo, mấy em gái Mông má đỏ hây nổi lửa nướng ngô nếp nương. Mùi thơm bay vòng vòng theo làn khói. Cạnh đó, bà cụ bán xôi bảy màu ướp tẩm nhuộm quết toàn bằng lá với rễ cây rừng với hương vị rất ngậy, rất lành và ngồ ngộ. Có ông cụ chỉ ẵm một con mèo con xuống chợ, thế cũng thành một phiên. Mèo bậu trên đầu gối ông mà vẫn còn ngo ngoe kêu như nhớ mẹ. Có cô em má đỏ hây hây, miệng cười lấp lóe răng vàng, tay cầm một bó dây thừng loằng ngoằng, mỗi sợi dây buộc cổ một con lợn con con. Chúng đang lồng lên đòi dũi vào rừng. Em đi bán cả đàn lợn. Bán lấy tiền sắm tết. Nhìn cái cảnh nhộn nhịp người mua, kẻ bán ấy khiến người ta có cảm giác ấm áp lạ kỳ.
Chợ đông nhất vào lúc gần trưa, khi men rượu đã đủ châng lâng, khi nắng xuân đã len lỏi soi rõ mặt người, cũng là lúc những tiếng khèn Mông đâu đó réo rắt vang lên. Những cô gái, chàng trai má đỏ hây hây đi thành từng nhóm, mặt mày rạng rỡ. Họ tranh thủ trao nhau ánh mắt, nụ cười và không quên lời hẹn hò cho phiên chợ lần sau. Những câu chuyện cứ dài ra, chảy mãi…
Tạm biệt rẻo cao trong đằm thắm sắc màu thổ cẩm, quấn quýt men nồng rượu ngô, chợt lắng lòng khi bắt gặp những vườn mận, vườn đào nhiều nụ hoa đã bung cánh tự bao giờ. Bên hiên nhà đơn sơ, những sắc hoa đung đưa trong khói lam chiều. Vậy là mùa xuân đã về trên cổng trời.n