Vướng mắc trong việc xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm

Bình Nguyên| 19/12/2019 14:26
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Rất nhiều vụ án mà các TAND cấp cao đã có văn bản thông báo trả lời, nhưng sau đó đương sự tiếp tục có đơn do có nhận thức rằng họ còn được giải quyết ở một cấp nữa đó là TANDTC, dẫn đến số lượng án này ngày càng tăng cao.

Đây cũng là một trong những bất cập về công tác giám đốc thẩm, tái thẩm hiện nay được các Vụ chuyên môn của TANDTC đề cập tại Hội nghị chuyên đề về công tác giám đốc thẩm, tái thẩm vừa qua.

Căn cứ nào để kháng nghị?

Về căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) đã quy định đầy đủ tại các Điều: 326, 327 và 328. Theo đó, chỉ trừ trường hợp xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba thì không cần phải có đơn đề nghị, cơ quan có thẩm quyền có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Còn các trường hợp khác khi kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì điều kiện bắt buộc là phải có đơn đề nghị của đương sự hoặc thông báo, kiến nghị của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng quy định tại Điều 326 BLTTDS năm 2015 về căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm còn có vướng mắc cần tháo gỡ.

Đó là: Vụ án có vi phạm trong thủ tục tố tụng làm thiệt hại đến quyền lợi của đương sự nhưng việc đánh giá mức độ nghiêm trọng còn có nhiều quan điểm khác nhau; và vụ án có đầy đủ các căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tuy nhiên đối tượng là tài sản không còn, các chứng cứ của vụ án không thể thu thập được ở Tòa án cấp sơ thẩm theo định hướng của Quyết định giám đốc thẩm…

Vướng mắc trong việc xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm

Quang cảnh hội nghị chuyên đề về công tác giám đốc thẩm, tái thẩm

Bà Đỗ Thị Hải Yến, Vụ trưởng, Vụ Giám đốc kiểm tra II, TANDTC cho rằng, cần xem xét lại đối với các trường hợp này có cần thiết phải kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay không?

Hiện nay, có một số trường hợp đơn do Đoàn ĐBQH, Đại biểu Quốc hội... chuyển đến (không phải là trường hợp có văn bản kiến nghị), nhưng ngoài đơn đề nghị của đương sự không có tài liệu nào khác kèm theo, trường hợp này có đủ điều kiện thụ lý hay không, Phòng Hành chính tư pháp thuộc Văn phòng phải có thông báo gửi đương sự yêu cầu bổ sung tài liệu chứng cứ theo quy định tại Điều 328 BLTTDS.

Một số vụ án khi đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, cơ quan thi hành án mới có kiến nghị xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm vì lý do bản án tuyên không rõ ràng, có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến không thi hành được bản án, trong khi không có tình tiết mới làm căn cứ tái thẩm.

Hiện nay chưa có hướng dẫn xử lý dứt điểm để đảm bảo quyền lợi của đương sự, bởi lẽ các trường hợp này không có căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm và đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

Về trình tự, thủ tục nhận đơn, xử lý đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm hiện nay cũng có nhiều bất cập.

Do nhận thức pháp luật

Thực tế, nhiều vụ việc đã được giải quyết tại TAND cấp cao (có thông báo trả lời đơn), tuy nhiên, sau đó đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị đến TANDTC đề nghị xem xét lại, khi Vụ Giám đốc kiểm tra II nhận được đơn đề nghị thì thời hạn kháng nghị 03 năm đã sắp hết (chỉ còn 01 tháng hoặc thậm chí còn 01, 02 tuần) là rất khó khăn cho việc rút hồ sơ nghiên cứu vụ án đúng thời hạn.

Theo quy định tại Điều 334 BLTTDS, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm được kéo dài thêm 02 năm nếu đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLTTDS và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều 327 đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị.

Nhiều trường hợp trong thời hạn 03 năm, đương sự có đơn đề nghị xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm và đã được các TAND cấp cao xem xét giải quyết có thông báo về việc không kháng nghị, nhưng sau đó đã hết thời hạn 03 năm đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.

Những trường hợp này, do trước đây được xem xét giải quyết tại TAND cấp cao nên rất khó để xác định có đúng trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, đương sự có đơn đề nghị giám đốc thẩm gửi TANDCC hay không.

Do đó, nhằm tháo gỡ khó khăn trong công tác thụ lý và xem xét vụ án còn thời hiệu kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay không, Vụ Giám đốc kiểm tra II đề xuất: Trong thông báo về việc không kháng nghị của TAND cấp cao gửi đương sự cần đề rõ ngày đương sự có đơn gửi TAND cấp cao, từ đó TANDTC có căn cứ xem xét việc đương sự đã có đơn đề nghị gửi Toà án trong thời hạn 01 năm theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLTTDS hay không.

Đồng thời, trong công tác phối hợp liên ngành, TANDTC cần có công văn gửi Viện KSNDTC đề nghị đối với các vụ án có thông báo về việc không kháng nghị của VKSND cấp cao, tại thông báo cũng cần thiết phải nêu rõ ngày đương sự có đơn gửi VKSND cấp cao như thế nào, ngày tháng năm nào?

Thực tế, có trường hợp đương sự gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm đã quá thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, lẽ ra phải trả lại đơn do hết thời hạn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 327 BLTTDS nếu vẫn thụ lý giải quyết đơn là không đúng quy định.

Về trình tự, thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 331 BLTTDS thì Chánh án TANDTC có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp cao; bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án khác khi xét thấy cần thiết.

Qua công tác thụ lý đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Vụ Giám đốc kiểm tra II cho thấy: Hiện nay số lượng những vụ án mà 03 TAND cấp cao đã có văn bản thông báo trả lời cho đương sự, sau đó đương sự tiếp tục đề nghị xem xét lại văn bản trả lời của TAND cấp cao ngày càng tăng, đồng thời đương sự có nhận thức đơn của họ còn được giải quyết ở một cấp nữa đó là TANDTC, do đó họ tiếp tục làm đơn đề nghị dẫn đến số lượng những loại án này ngày một tăng.

Khi Vụ Giám đốc kiểm tra II thụ lý những vụ việc này thì phần lớn đều gần hết thời hạn giám đốc thẩm, có vụ thời hạn chỉ còn 01 đến 02 tháng. Do đó, đây là áp lực lớn cho lãnh đạo, Thẩm tra viên của Vụ trong việc rút hồ sơ, nghiên cứu, đề xuất giải quyết và cũng áp lực là đối với Thẩm phán và lãnh đạo TANDTC.

Vụ Giám đốc kiểm tra II đề xuất, xem xét lại quy định cụ thể hơn theo hướng: Sau khi TAND cấp cao có văn bản thông báo trả lời cho đương sự lần đầu do Thẩm phán được giao giải quyết ký, sau đó đương sự tiếp tục đề nghị xem xét lại văn bản trả lời này của TAND cấp cao thì lãnh đạo TAND cấp cao (Chánh án hoặc Phó Chánh án được ủy quyền) xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm cho đương sự; Chánh án TANDTC chỉ xem xét lại những vụ án đã được TAND cấp cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi thấy cần thiết, hoặc những vụ khiếu kiện bức xúc, kéo dài…

Vụ giám đốc kiểm tra II cho rằng, cần có hướng dẫn cụ thể về việc thế nào là “cần thiết” để thống nhất trong việc thụ lý, giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm và đảm bảo tính công bằng, khách quan trong xét xử, xem xét lại vụ án của Tòa án.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Vướng mắc trong việc xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm