Thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI.
Ban soạn thảo Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) đã xây dựng tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử.
Những hạn chế của Luật Tổ chức TAND năm 2002
Theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002 thì hệ thống TAND được chia thành 3 cấp gồm: TANDTC, TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện. Thực tiễn thi hành Luật Tổ chức TAND năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002, Pháp lệnh tổ chức TAQS năm 2002 cho thấy tổ chức và hoạt động của các Tòa án ở nước ta đang chứa đựng, bộc lộ những khiếm khuyết và bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển và đòi hỏi của đời sống chính trị, kinh tế và xã hội. Chất lượng xét xử của các Tòa án chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã hội. Nguồn nhân lực, cơ sở vật chất của các Tòa án còn thiếu thốn, bất cập, nhất là ở các Tòa án cấp huyện. Những khiếm khuyết, bất cập trong tổ chức và hoạt động của Tòa án, một mặt làm hạn chế vai trò và sự phát triển của cơ quan Tòa án với tư cách là một thiết chế cơ bản trong việc thực hiện quyền lực tư pháp của quốc gia. Nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại, bất cập nêu trên xuất phát từ các quy định của pháp luật hiện hành về mô hình tổ chức Tòa án, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy của Tòa án từng cấp còn chưa hợp lý, chưa phù hợp với các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của TAND.
Trước những bất cập trên, ngày 2/6/2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó Tòa án được xác định là trung tâm, xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp; các Toà án được tổ chức và hoạt động theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Ngày 28/7/2010, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 79-KL/TW “về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong đó tiếp tục xác định phương hướng tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Tiếp theo, ngày 12/3/2014, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 92-KL/TW và khẳng định thực hiện chủ trương tổ chức TAND theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình làm việc với TAND TP Hà Nội
Bộ Chính trị đề nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, xác định rõ nội hàm và xây dựng cơ chế để TAND thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp như quy định của Hiến pháp năm 2013; những nội dung này cần được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của TAND xứng tầm là cơ quan được giao thực hiện quyền tư pháp, thực sự là chỗ dựa của nhân dân về công lý.
Tòa án sẽ được tổ chức theo thẩm quyền xét xử
Sau nhiều lần chỉnh lý, bổ sung, tại Điều 5 của Dự thảo 9 Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) nêu rõ: “Các TAND được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử” và tổ chức TAND được chia thành 4 cấp gồm: TANDTC; các TAND cấp cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; các TAQS.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của TANDTC, Chương II của Dự thảo 9 Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) quy định: TANDTC không thực hiện nhiệm vụ xét xử phúc thẩm mà chỉ thực hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm; tổng kết thực tiễn xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. TANDTC quản lý các Toà án về tổ chức (quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ...); xây dựng pháp luật theo sự phân công của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đồng thời, bổ sung nhiệm vụ đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của Tòa án. Về cơ cấu tổ chức của TANDTC, Dự thảo Luật quy định việc đổi mới tổ chức và hoạt động của TANDTC theo hướng tinh gọn với Hội đồng Thẩm phán TANDTC có từ 13 đến 17 Thẩm phán TANDTC. Hoạt động xét xử của Hội đồng Thẩm phán TANDTC được đổi mới theo hướng có Hội đồng xét xử gồm 5 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Thẩm phán TANDTC. Bên cạnh đó, để cụ thể hóa quy định tại khoản 1 Điều 104 của Hiến pháp về việc “TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam”, tại khoản 4 Điều 22 của Dự thảo Luật quy định: “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị”.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của TAND cấp cao, Chương III của Dự thảo Luật quy định: TAND cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc địa hạt tư pháp đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị. Về cơ cấu tổ chức, TAND cấp cao gồm Ủy ban Thẩm phán (gồm Chánh án, các Phó Chánh án, các Chánh tòa và một số Thẩm phán của TAND cấp cao), các Tòa chuyên trách và bộ máy giúp việc. Trong đó các Toà chuyên trách xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa có hiệu lực pháp luật có kháng cáo, kháng nghị. Uỷ ban Thẩm phán giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, TAND sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng ba Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao theo quy định của pháp luật tố tụng. Về các Tòa chuyên trách của TAND cấp cao, bên cạnh các loại Tòa chuyên trách hiện có trong cơ cấu tổ chức của TAND như: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Hành chính, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, trong Dự thảo Luật quy định thêm Tòa Gia đình và người chưa thành niên để giải quyết các vụ việc có liên quan đến người chưa thành niên. Việc thành lập các Tòa chuyên trách này ở Tòa án cụ thể nào phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của từng Tòa án. Trường hợp do nhu cầu công tác, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác trong TAND cấp cao thì Chánh án TANDTC đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chương IV Dự thảo Luật quy định các Tòa án này xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND sơ thẩm thuộc địa hạt của tỉnh; không thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm. Về tổ chức, tại mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh có một TAND cấp tỉnh như hiện nay, nhưng không còn Uỷ ban Thẩm phán. TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có các Tòa chuyên trách bao gồm: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Hành chính, Tòa Kinh tế, Tòa Lao động, Tòa Gia đình và người chưa thành niên. Việc thành lập các Tòa chuyên trách ở từng TAND cấp tỉnh do Chánh án TANDTC quyết định. Trường hợp do nhu cầu công tác, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác trong TAND cấp tỉnh thì Chánh án TANDTC đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Đối với TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương được quy định tại Chương V Dự thảo Luật thì các Tòa án này có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án (như TAND cấp huyện hiện nay) và giải quyết các loại việc khác theo quy định của pháp luật (như xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND). TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có các Tòa chuyên trách: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Gia đình và người chưa thành niên, Tòa Xử lý hành chính. Việc thành lập các Tòa chuyên trách ở TAND cấp huyện phải tùy thuộc vào quy mô về công việc và đội ngũ Thẩm phán, công chức của từng đơn vị Tòa án. Ở những đơn vị có số lượng công việc lớn, biên chế nhiều thì có thể thành lập Tòa chuyên trách; ngược lại, nếu số lượng công việc không nhiều thì chỉ bố trí Thẩm phán chuyên trách để giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa Hành chính, Tòa Lao động, Tòa Kinh tế, Tòa Gia đình và người chưa thành niên. Việc thành lập Tòa chuyên trách cụ thể nào trong số các Toà chuyên trách nêu trên ở mỗi TAND cấp huyện do Chánh án TANDTC quyết định.
Còn đối với nhiệm vụ, quyền hạn của TAQS, Chương VI Dự thảo Luật xây dựng thành hai phương án. Phương án 1: TAQS được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS và thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của luật. Phương án 2: TAQS xét xử những vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, viên chức, công nhân quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong huấn luyện, phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý; các tội phạm xảy ra ở địa phương trong thời gian thi hành lệnh thiết quân luật của Chủ tịch nước. Xét xử những vụ án hình sự mà việc phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội; thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của luật. Còn về bộ máy tổ chức thì TAQS cơ bản được giữ nguyên như hiện nay và chỉ chỉnh lý, cơ cấu lại để bảo đảm tính hợp lý, khoa học.
Đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC, Trưởng Ban soạn thảo Dự án Luật Tổ chức TANDTC (sửa đổi) khẳng định: Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử sẽ bảo đảm nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử; tạo cơ sở pháp lý để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Tòa án; xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của Tòa án hiện đại, khoa học nhằm thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.