Cho rằng cây mắc ca có ý nghĩa “quốc kế, dân sinh”, Thủ tướng giao Bộ NN&PTNT cùng Hiệp hội Mắc ca và các địa phương xây dựng một chiến lược phát triển cây mắc ca ở Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh tầm quan trọng của cây giống trong phát triển ngành hàng mắc ca
Sáng 29/9 tại Thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự hội nghị "Kết quả phát triển cây mắc ca tại Việt Nam thời gian qua; định hướng và giải pháp phát triển trong thời gian tới".
Dự hội nghị có lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng các doanh nghiệp, hộ gia đình tiêu biểu về trồng, chế biến, tiêu thụ sản phẩm mắc ca.
Tại Hội nghị các ý kiến đều khẳng định hiệu quả kinh tế và xã hội của cây mắc ca, là cây giúp xóa đói giảm nghèo. Có 2 vùng có thể phát triển ổn định cây mắc ca, loại cây có yêu cầu khắt khe về điều kiện khí hậu, độ ẩm, là vùng Tây Bắc và Tây Nguyên, còn các vùng khác chưa cho kết quả tối ưu “ra hoa đậu quả” hoặc không đủ diện tích phát triển hàng hóa lớn.
Theo ý kiến một số doanh nghiệp, khâu chế biến có ý nghĩa quan trọng, quyết định đầu ra của nông sản. Hiện nay chính sách thuế đối với chế biến nông sản còn bất cập, có nhiều mức thuế suất, từ 0%, 5% 10% nhưng chưa quy định rõ ràng việc áp mức nào, khiến doanh nghiệp lúng túng. Doanh nghiệp cũng mong muốn được hỗ trợ về tiếp cận thị trường.
Một số hộ trồng mắc ca tiêu biểu cho rằng, trong nông nghiệp, phải “được mùa, được giá” thì nông dân mới làm giàu được. Có ý kiến đề nghị việc thành lập hợp tác xã, ngân hàng tạo thuận lợi cho vay vốn khi vào mùa vụ…
Cây mắc ca có ý nghĩa “quốc kế, dân sinh”
Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng biểu dương Bộ NN&PTNT, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, hộ nông dân đã mang lại thắng lợi bước đầu cho cây mắc ca, trong 5 năm qua đã tăng sản lượng gần 25 lần, đạt khoảng 7.000 tấn hạt, xuất khẩu trên 60%.
Thủ tướng cho rằng đây là một loại cây, loại quả có thể “đi sau, về trước” nếu biết cách làm. Thủ tướng lấy ví dụ về cây cà phê vào Việt Nam từ năm 1885. Năm 1902, người Pháp chính thức cho khảo nghiệm và đến năm 1975, Việt Nam mới có 13.000 ha cà phê.
Bắt đầu từ thời kỳ đổi mới, 1986, bằng việc đưa nhanh diện tích cà phê vào nông lâm trường, rồi tới những năm 1990, cây cà phê phát triển mạnh ở những hộ gia đình, đến nay, chúng ta có một ngành hàng cà phê với diện tích trên 680.000 ha, sản lượng 1,5 triệu tấn, xuất khẩu 3 tỷ USD.
Sau gần 125 năm, cây cà phê trở thành cây công nghiệp đứng 2 thế giới về xuất khẩu. Vậy một câu hỏi đặt ra là, đối với cây mắc ca, với tinh thần “đi sau, về trước”, vào Việt Nam khảo nghiệm, phát triển và bước đầu đã thành công thì cần 10 năm hay 20 năm tới đây để có thể trở thành cây đứng đầu thế giới, Thủ tướng đặt vấn đề.
Thủ tướng yêu cầu ngành nông nghiệp, các nhà khoa học, các doanh nghiệp, Hiệp hội Mắc ca Việt Nam phải trả lời cho được những câu hỏi để làm sao mắc ca có thể phát triển xứng tầm với điều kiện cụ thể ở Việt Nam. Cây mắc ca chứa đựng nhiều giá trị xã hội đặc biệt, không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế, vì cây mắc ca có thể vào vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng khó khăn, vùng đồng bào có thu nhập thấp, là cây xóa đói giảm nghèo và làm giàu. Cây mắc ca có ý nghĩa “quốc kế, dân sinh”, mang lại hiệu quả kinh tế và giải quyết rất nhiều việc làm cho người dân.
Quản lý đồng bộ phát triển cây mắc ca khi công bố quy hoạch
Cho biết, theo tính toán, mắc ca có thể cho thu nhập 250 triệu đồng/ha với mức giá 6 đô la Úc hiện nay, gấp 3 lần cây cà phê, nhưng Thủ tướng nhấn mạnh cần có quy hoạch tiểu vùng thay vì đâu đâu cũng trồng mắc ca. Phát triển mắc ca phải gắn với quản lý nhà nước về quản lý giống, đầu tư khoa học công nghệ. Mắc ca là sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, chứa 70-80% dầu, trong đó có axít béo chưa no, hàm lượng protein cao với nhiều axit amin. Đây là cơ sở để chế biến các loại sản phẩm sữa hạt cho nhiều lứa tuổi, nguyên liệu mỹ phẩm cao cấp, các loại kem và nhiều sản phẩm giá trị khác.
Tiềm năng như vậy, nhưng Thủ tướng cho biết, qua 10 năm phát triển, sản lượng mắc ca còn rất nhỏ, chỉ bằng 1% sản lượng hạt có dầu của nước ta. Cho nên, theo Thủ tướng, tại sao không phát triển nhanh mà đến năm 2030 chỉ có 450.000 ha và sản lượng chỉ có 200 nghìn tấn?
Một câu hỏi cho Hiệp hội Mắc ca, cơ quan quản lý nhà nước về mắc ca, cho các nhà khoa học. Nhiệt độ, độ cao, điều kiện thời tiết khí hậu, độ ẩm cần thiết đặt ra cho chúng ta cần có quy hoạch cụ thể. Hai vùng có thể phát triển ổn định cây mắc ca mà hôm nay chúng ta khẳng định đó là Tây Bắc và Tây nguyên. Còn các vùng khác chưa cho tối ưu ra hoa đậu quả hoặc không đủ diện tính phát triển hàng hóa lớn phải xem xét.
Tại sao vùng Đông Trường Sơn của miền Trung Việt Nam không thể phát triển cây mắc ca với sản lượng cao, có thể có sản lượng nhưng thấp, thì phải nghiên cứu, tránh trồng ra có sự cố thì không phải đơn giản với người nông dân. Do đó phải tập trung cho hai vùng Tây Bắc, Tây nguyên, còn các vùng khác xem xét thí điểm trước khi kết luận đại trà.
Thủ tướng nhấn mạnh, quản lý phát triển giống, thì khâu giống là quyết định. Hiện có 13 loại giống được công nhận và một số giống mới do doanh nghiệp nhập về, cần có sự lựa chọn phù hợp, tránh tình trạng nông dân trồng mà không có quả. Đối với vùng Tây nguyên thì có thể trồng xen, vùng Tây Bắc có thể trồng tập trung.
Do đây là cây có thể thâm canh, Thủ tướng cho rằng phải chú ý đầu tư đồng bộ từ đầu mới cho hiệu quả. Cùng với đó phải gắn với công nghiệp chế biến càng sâu càng tốt. Ngành ngân hàng cần nghiên cứu chính sách tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp đầu tư vào mắc ca tiếp cận thuận lợi.
Phải quản lý đồng bộ về vấn đề phát triển cây mắc ca khi công bố quy hoạch, Thủ tướng nhất trí, có thể thành lập hợp tác xã phát triển cây mắc ca từ sản xuất cho đến chế biến.
Sau nhiều năm phát triển, căn cứ vào thực tế, kết quả của hội nghị và những vướng mắc hiện hành, Thủ tướng giao Bộ NN&PTNT cùng Hiệp hội Mắc ca và các địa phương xây dựng một chiến lược phát triển cây mắc ca ở Việt Nam. Bộ NN&PTNT chủ trì nghiên cứu xây dựng một nghị định về phát triển mắc ca, do hiện nay chính sách dành cho loại cây này đang phân tán.