Báo cáo giải trình, tiếp thu dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Mai Thoa| 25/05/2020 09:03
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Sáng nay 25/5, Quốc hội thảo luận tại hội trường về một số nội dunng còn có ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Thay mặt UBTVQH, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga trình bày báo cáo giải trình tiếp thu dự án luật này.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết: Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án. Trên cơ sở ý kiến của các ĐBQH, ý kiến góp ý của các cơ quan hữu quan, của UBTVQH (tại phiên họp thứ 41 (tháng 01/2020)), dự thảo Luật tiếp tục được chỉnh lý, hoàn thiện để báo cáo trước Quốc hội. Theo đó, các nội dung được giải trình tiếp thu tập trung vào các vấn đề như phạm vi điều chỉnh, thu phí hòa giải, bổ nhiệm Hòa giải viên, trình tự công nhận quyết định hòa giải thành…

Về phạm vi hòa giải, đối thoại tại Tòa án và tên gọi của dự thảo Luật, nhiều ý kiến tán thành với phạm vi hòa giải, đối thoại của dự thảo Luật; Có ý kiến đề nghị cân nhắc áp dụng đối với cả những trường hợp tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nhưng đương sự không lựa chọn khởi kiện mà lựa chọn cơ chế hòa giải, đối thoại tại Tòa án.

Báo cáo giải trình, tiếp thu dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga

UBTVQH cho rằng, dự thảo Luật đang quy định phạm vi điều chỉnh là đối với “những trường hợp tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mà đương sự có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án”. Trường hợp đương sự không khởi kiện tại Tòa án mà lựa chọn hòa giải, đối thoại thì pháp luật hiện hành đã có nhiều cơ chế hòa giải, đối thoại như: hòa giải ở cơ sở theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở;… Đồng thời, tại Chương XXXIII của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã có quy định Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án, theo đó, các bên có quyền đề nghị Tòa án xem xét, ra quyết định công nhận kết quả mà các bên đã hòa giải thành. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho được giữ phạm vi điều chỉnh như dự thảo Luật. Còn về tên gọi, đa số ý kiến tán thành với tên gọi “Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án”, vì như vậy bảo đảm phù hợp với phạm vi điều chỉnh và nội dung của dự thảo Luật, nên UBTVQH cũng cơ bản tán thành.

Thu phí hòa giải 3 trường hợp

Về việc thu, nộp chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án (Điều 9 dự thảo Luật), nhiều ý kiến tán thành việc Nhà nước không thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án đối với các đương sự với những lý do như Tờ trình của TANDTC. Một số ý kiến đề nghị cân nhắc để quy định Nhà nước thu một khoản chi phí nhất định đối với một số trường hợp. Đối tượng chịu chi phí là các vụ việc dân sự có giá ngạch từ 100 triệu đồng trở lên hoặc có giá trị từ 1 tỷ đồng trở lên; các vụ án hành chính mà pháp  nhân, cá nhân có yêu cầu về trách nhiệm dân sự.

UBTVQH nhận thấy, hòa giải, đối thoại tại Tòa án có nhiều ưu điểm, giúp giải quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện, do đó sẽ hạn chế số lượng lớn các vụ việc phải đưa ra Tòa án xét xử. Kết quả hòa giải, đối thoại thành được các bên tự nguyện thi hành sẽ giúp tiết kiệm được khoản chi phí lớn mà hàng năm ngân sách phải đầu tư cho công tác xét xử, công tác thi hành án dân sự và tiết kiệm chi phí của xã hội. Do đây là phương thức giải quyết tranh chấp mới nên cần có thời gian để đi vào cuộc sống phát huy hiệu quả và cần khuyến khích người dân lựa chọn.

Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật chỉnh lý theo hướng đa số các trường hợp Nhà nước không thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Nhà nước chỉ thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án với 03 trường hợp: Thứ nhất là Pháp nhân, cá nhân nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch; Thứ hai là chi phí phát sinh khi tiến hành hòa giải, đối thoại trong trường hợp các bên thống nhất hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở Tòa án; chi phí khi hòa giải viên xem xét hiện trạng tài sản liên quan đến tranh chấp, khiếu kiện mà tài sản đó nằm ngoài phạm vi lãnh thổ của tỉnh nơi Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc có trụ sở, trước khi Hòa giải viên lập biên bản ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành; Thứ ba là chi phí phiên dịch tiếng nước ngoài. Vì đây là những hoạt động phát sinh lợi nhuận hoặc thường là các khoản chi lớn, các bên có trách nhiệm chia sẻ một phần để giảm chi cho ngân sách nhà nước. Mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp do Chính phủ quy định chi tiết.

Về tiêu chuẩn, quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên; quan hệ giữa Tòa án và Hòa giải viên, nhiều ý kiến tán thành với quy định tại dự thảo Luật, theo đó, ngoài những đối tượng là những người có chức danh tư pháp đã nghỉ hưu (Thẩm phán, Kiểm sát viên…), thì Luật sư, chuyên gia, nhà chuyên môn khác phải có ít nhất 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác mới có thể được xem xét, bổ nhiệm làm Hòa giải viên.
Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, quy định thời gian 10 năm như trên là quá dài, chỉ cần quy định 05 năm là đủ.

UBTVQH nhận thấy, theo Điều 1 dự thảo Luật thì đối tượng hòa giải, đối thoại thường là những vụ việc có tính chất chuyên ngành sâu, phức tạp, đòi hỏi Hòa giải viên phải am hiểu pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng và có kinh nghiệm trong công tác pháp luật. Thực tiễn thí điểm tại 16 tỉnh, thành phố vừa qua cho thấy, hầu hết đội ngũ Hòa giải viên là các Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thanh tra viên đã nghỉ hưu, các luật sư, chuyên gia có nhiều năm làm công tác pháp luật nên đã thực hiện tốt nhiệm vụ của Hòa giải viên và giải quyết hiệu quả các tranh chấp. Đây cũng là một trong những lý do dẫn đến kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đạt cao vừa qua (78,08%) và đến nay chưa có vụ việc nào các đương sự đề nghị xem xét lại. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho được giữ như quy định của dự thảo Luật.

Nhiệm kỳ Hòa giải viên là 03 năm

Về nhiệm kỳ của Hòa giải viên, có ý kiến đề nghị quy định là 05 năm, thay vì 03 năm như dự thảo Luật, UBTVQH nhận thấy, việc quy định nhiệm kỳ 03 năm như dự thảo Luật nhằm khuyến khích các Hòa giải viên nỗ lực phấu đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ để tiếp tục được tái bổ nhiệm; đồng thời tạo cơ chế sàng lọc kịp thời những Hòa giải viên không đáp ứng yêu cầu công việc do hạn chế về sức khỏe, năng lực… Quy định này cũng phù hợp với kinh nghiệm một số nước trên thế giới (Nhật Bản quy định nhiệm kỳ Hòa giải viên là 03 năm, Hàn Quốc là 02 năm). Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho được giữ như quy định của dự thảo Luật.

Báo cáo giải trình, tiếp thu dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Quang cảnh kỳ họp

Đáng  chú ý, dự thảo Luật lần này bổ sung quy định về khiếu nại, tố cáo trong trường hợp kỷ luật Hòa giải viên mà trước đó quá trình thảo luận các ĐBQH cũng đã đề nghịh. Theo đó, nội dung này được bổ sung tại khoản 4 Điều 17 và giao cho TANDTC hướng dẫn cụ thể.

Liên quan đến việc có nên quy định cơ chế công nhận Hòa giải viên thay cho cơ chế bổ nhiệm Hòa giải viên hay không, UBTVQH cho rằng, hòa giải, đối thoại theo Luật này liên quan đến việc giải quyết tranh chấp của các đương sự, đến quyền tài sản, quyền nhân thân của họ, do đó đòi hỏi Hòa giải viên phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn Luật định và trình tự, thủ tục, thẩm quyền lựa chọn, bổ nhiệm Hòa giải viên phải được quy định chặt chẽ nhằm tạo ra đội ngũ Hòa giải viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho được giữ cơ chế bổ nhiệm Hòa giải viên như dự thảo Luật.

Còn về số lượng Hòa giải viên tại mỗi Tòa án phụ thuộc vào số lượng vụ việc mà Tòa án đó phải giải quyết hằng năm. Việc quy định cứng trong Luật số lượng tối đa Hòa giải viên tại mỗi Tòa án có thể dẫn tới thừa, thiếu cục bộ. Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ và phù hợp với khối lượng công việc của từng Tòa án, khoản 3 Điều 11 dự thảo Luật được chỉnh lý như sau: “Căn cứ nhu cầu bổ nhiệm Hòa giải viên, TAND nơi tiến hành hòa giải, đối thoại lựa chọn người có đủ điều kiện đề nghị Chánh án TAND cấp tỉnh xem xét, bổ nhiệm”, UBTVQH nhận định.

Trong quá trình tiếp thu ý kiến của các ĐBQH và các cơ quan hữu quan cũng có ý kiến đề nghị quy định Hòa giải viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả hòa giải, đối thoại. Theo UBTVQH, Hòa giải viên do các bên lựa chọn để tiến hành hòa giải, đối thoại. Kết quả hòa giải, đối thoại cụ thể thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự và do các bên đương sự quyết định. Do đó, quy định Hòa giải viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả hòa giải, đối thoại là không phù hợp. UBTVQH đề nghị Quốc hội cho được giữ như quy định của dự thảo Luật.

Có ý kiến cho rằng, do Hòa giải viên không phải là cán bộ, công chức, viên chức nên không thể áp dụng hình thức kỷ luật theo quy định của pháp luật công chức, viên chức; có ý kiến đề nghị làm rõ hình thức kỷ luật Hòa giải viên khi vi phạm quy định của Luật này. Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, dự thảo Luật chỉnh lý quy định “kỷ luật Hòa giải viên” thành “xử lý vi phạm đối với Hòa giải viên” . Đồng thời, bổ sung quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm, quyền khiếu nại của người bị xử lý vi phạm để bảo đảm chặt chẽ (tại Điều 17).

Thẩm phán ra quyết định công nhận hòa giải thành

Về kiến đề nghị làm rõ việc phân công Thẩm phán theo dõi công tác hòa giải trong điều kiện số lượng Thẩm phán không tăng thì có làm hạn chế số lượng Thẩm phán giải quyết vụ án hay không. UBTVQH nhận thấy, việc dự thảo Luật quy định Thẩm phán tham gia ngay từ phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải, đối thoại là cần thiết, một mặt, để xác nhận việc các bên tự nguyện hòa giải, đối thoại, mặt khác, tạo điều kiện để Thẩm phán nắm được đầy đủ nội dung vụ việc và kết quả giải quyết, từ đó ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành được khẩn trương, chính xác. Quá trình Hòa giải viên tiến hành hòa giải, đối thoại, Thẩm phán chỉ thực hiện phân công Hòa giải viên và tham gia phiên họp ghi nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành. Nếu việc hòa giải, đối thoại thành công thì sẽ giảm đáng kể khối lượng công việc cho Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án so với việc phải giải quyết vụ án theo quy định của các luật tố tụng.

UBTVQH tán thành với ý kiến của đa số ĐBQH và tiếp thu, chỉnh lý tại khoản 2 Điều 15 dự thảo Luật theo hướng mở rộng phạm vi hoạt động của Hòa giải viên, theo đó, ngoài hoạt động tại Tòa án nơi Hòa giải viên được bổ nhiệm, Hòa giải viên có thể hoạt động tại Tòa án khác nhưng phải trong phạm vi địa giới hành chính của Tòa án cấp tỉnh. Quy định như vậy tạo điều kiện tốt hơn để đương sự lựa chọn được Hòa giải viên mà họ tín nhiệm. Đồng thời, với phạm vi hoạt động của Hòa giải viên trong một đơn vị cấp tỉnh, thì Tòa án vẫn có điều kiện đánh giá, giám sát chặt chẽ chất lượng Hòa giải viên và kịp thời đề nghị Chánh án có thẩm quyền miễn nhiệm những Hòa giải viên không đáp ứng yêu cầu công việc.

Về thủ tục ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành (Điều 32), nhiều ý kiến tán thành với quy định của dự thảo Luật theo hướng Thẩm phán phụ trách hòa giải, đối thoại ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành mà không cần phải mở phiên họp với trình tự, thủ tục và thành phần như quy định tại Chương XXXIII của BLTTDS với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của TANDTC.

UBTVQH nhận thấy, thẩm quyền, điều kiện, trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại và công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành trong dự thảo Luật đã được quy định cụ thể, chặt chẽ, có sự giám sát của Thẩm phán Tòa án nhằm bảo đảm căn cứ pháp lý vững chắc cho việc Thẩm phán ra quyết định công nhận. Do tính chất đặc thù của hoạt động hòa giải, đối thoại theo Luật này thì việc mở phiên họp để xem xét, ra quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành là không cần thiết và sẽ kéo dài thời gian giải quyết vụ việc, làm mất tính ưu việt của phương thức giải quyết tranh chấp này. Đối với các phương thức hòa giải khác ngoài tố tụng, các bên tiến hành hòa giải xong mới đưa kết quả đến Tòa án đề nghị ra quyết định công nhận, Tòa án hoàn toàn không nắm được nội dung vụ việc trước đó, vì vậy mới cần có thủ tục mở phiên họp với trình tự và thành phần quy định như tại Chương XXXIII của BLTTDS để xét đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành.

Tuy nhiên, để bảo đảm chặt chẽ, có đủ thời gian và đủ thông tin để Thẩm phán ra quyết định chính xác, dự thảo Luật đã chỉnh lý tại Điều 32 theo hướng:  Nâng thời hạn chuẩn bị ra Quyết định công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành từ 05 ngày lên thành 15 ngày để Thẩm phán có đủ thời gian nghiên cứu hồ sơ, tài liệu;  Trong thời hạn này, bổ sung cho Thẩm phán quyền yêu cầu các bên đương sự trình bày ý kiến về kết quả hòa giải thành, đối thoại thành đã được ghi tại biên bản; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp các tài liệu làm cơ sở cho việc ra Quyết định công nhận; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trả lời Tòa án trong 05 ngày làm việc.

Ngoài ra, một số nội dung khác nữa cũng được UBTVQH báo cáo Quốc hội cho ý kiến.

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Báo cáo giải trình, tiếp thu dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án