Trong phiên họp toàn thể Ủy ban Tư pháp (UBTP) thẩm tra dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án, đa số ĐBQH đánh giá cao tầm quan trọng của việc xây dựng dự án Luật này. Đây là dự án Luật sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp Quốc hội tháng 10 tới.
Cơ sở thực tiễn để xây dựng Luật
Trình bày Tờ trình về dự án Luật, Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Du cho biết: Tại phiên họp ngày 15/12/2017, Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương đã giao cho TANDTC triển khai, nghiên cứu xây dựng Đề án đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hành chính; đề xuất việc hoàn thiện cơ sở pháp lý và các điều kiện đảm bảo triển khai thực hiện phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và yêu cầu thực tiễn.
Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Du phát biểu tại phiên họp
Thực hiện Nghị quyết của UBTVQH, Chánh án TANDTC đã thành lập Ban soạn thảo; Ban hành Kế hoạch soạn thảo và trình dự án Luật, Quy chế hoạt động của Ban soạn thảo dự án Luật; Tổ chức nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng dự án Luật Hòa giải, đối thoại.
Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng dự án Luật này, TANDTC đã tổ chức thí điểm về tăng cường, đổi mới hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại Tòa án ở 16 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương theo kết luận của BCĐ CCTP Trung ương; Tổng kết thực hiện hòa giải, đối thoại theo quy định của pháp luật hiện hành; Tổ chức các hội thảo, hội nghị, tọa đàm trong nước và quốc tế về những nội dung có liên quan; Tổ chức các phiên họp của Ban soạn thảo, Tổ biên tập dự án Luật; đánh giá tác động và xây dựng Báo cáo đánh giá tác động của dự án Luật; Tổ chức lấy ý kiến các bộ, ngành hữu quan, các thành viên Hội đồng Thẩm phán TANDTC, các Tòa án trên toàn quốc…
Cùng với đó, TANDTC đã tham khảo luật về hòa giải của 6 quốc gia gồm: Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Đức; tiếp cận và tham khảo luật về hòa giải của hơn 60 quốc gia khác, gồm: Indonexia, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Canada, Áo, Bỉ, Cộng hòa Séc, Luxembourg, Hà Lan, Pháp...).
Theo Phó Chánh án Nguyễn Văn Du, hiện nay, số lượng các vụ việc Tòa án các cấp phải thụ lý tăng lên rất nhanh với quy mô lớn và tính chất phức tạp. Trong 3 năm gần đây, các vụ việc dân sự, hành chính được Tòa án các cấp thụ lý tỷ lệ gia tăng trung bình hàng năm là 9% so với cùng kỳ năm trước, trong khi đó, biên chế không thay đổi. Có những địa bàn, mỗi Thẩm phán phải giải quyết số lượng vụ việc gấp 4 lần số lượng theo chỉ tiêu, dẫn đến tồn đọng, chậm trễ. Tình hình đó bắt buộc phải có những giải pháp căn cơ thúc đẩy nhanh và hiệu quả việc giải quyết đơn của nhân dân, giảm áp lực cho Tòa án. Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là một chế định ưu việt đáp ứng được yêu cầu này.
Cơ chế mới có nhiều ưu việt
Theo Phó Chánh án Nguyễn Văn Du, TANDTC xây dựng dự thảo Luật này có phạm vi điều chỉnh quy định phạm vi, nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, Đối thoại viên, các bên tham gia hòa giải, đối thoại; Trách nhiệm của Tòa án đối với công tác hòa giải, đối thoại; Trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại; công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án. Luật này không điều chỉnh các hoạt động hòa giải, đối thoại đã được luật khác quy định.
Hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này được thực hiện trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính.
Toàn cảnh phiên họp
Báo cáo kết quả thẩm tra của Nhóm chuyên gia nghiên cứu của UBTP đánh giá: Hòa giải, đối thoại tại Tòa án được quy định trong dự thảo Luật này là một cơ chế pháp lý mới về hòa giải, đối thoại tại Tòa án để cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn giải quyết tranh chấp. Cơ chế này sẽ huy động được nguồn nhân lực chất lượng cao trong xã hội, góp phần khắc phục những khó khăn, vướng mắc, hạn chế của cơ chế hòa giải, đối thoại hiện hành. Đồng thời, thể chế hóa những ưu điểm đã đạt được từ hoạt động thí điểm về đổi mới, tăng cường hòa giải, đối thoại trong giải quyết các tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính tại 16 tỉnh, thành phố, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế.
Đa số ý kiến của Nhóm nghiên cứu cho rằng, nội dung dự thảo Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng được nêu trong Nghị quyết 48-NQ/TW, Nghị quyết 49-NQ/TW… về chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp…
Theo quy định trong dự thảo Luật, các tranh chấp, khiếu kiện được tiến hành hòa giải, đối thoại là tranh chấp, khiếu kiện đã có đầy đủ các điều kiện khởi kiện theo BLTTDS, Luật TTHC (đã qua hòa giải, đối thoại ở giai đoạn tiền tố tụng).
Tuy các tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nhưng sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án không tiến hành các thủ tục để thụ lý, hòa giải, đối thoại theo quy định của BLTTDS, Luật TTHC như hiện nay Tòa án vẫn thực hiện, mà sau khi nhận đơn khởi kiện, Tòa án làm các thủ tục để chuyển cho Hòa giải viên, Đối thoại viên tiến hành hòa giải, đối thoại theo quy định của Luật này. Trường hợp không được hòa giải, đối thoại, không tiến hành hòa giải, đối thoại được hoặc các bên không đồng ý hòa giải, đối thoại thì Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết theo quy trình tố tụng. Do đó, Nhóm nghiên cứu nhận thấy quy định của dự thảo Luật không mâu thuẫn với quy định của pháp luật hiện hành, cũng như không trái với Hiến pháp năm 2013.
Phát biểu thảo luận, đa số các ý kiến nhất trí với dự thảo Luật và Tờ trình về tầm quan trọng của việc ban hành Luật này.
ĐB Nguyễn Thị Thủy, Ủy viên thường trực UBTP cho biết, qua nghiên cứu bước đầu về dự án Luật này cũng như nghiên cứu pháp luật trong nước thấy rằng tinh thần chung đều theo hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế “các bên nếu còn cơ hội hòa giải sẽ tạo điều kiện cho họ ngồi lại với nhau để hòa giải”. Pháp luật tố tụng dân sự, hành chính của các nước cũng đang đi theo hướng đó và tinh thần dự Luật này cũng như vậy.
Luật TTDS và Luật TTHC hiện hành quy định khi có đơn khởi kiện của các bên đương sự, trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án tiến hành cho các bên hòa giải và nếu như các bên không hòa giải được thì phiên tòa sơ thẩm cũng có cơ chế pháp lý cho các bên tiếp tục hòa giải. Nếu các bên đồng thuận sẽ ra quyết định hòa giải thành, thậm chí khi có bản án sơ thẩm rồi, có kháng cáo ra đến phiên phúc thẩm Tòa án vẫn tạo điều kiện để các bên hòa giải tiếp. Nếu thành, thì ra quyết định hủy, sửa bản án theo kết quả hòa giải này.
Từ kinh nghiệm trong nước và thực tế như vậy thấy rằng TANDTC trình dự án Luật ở thời điểm hiện nay là cần thiết, vì sẽ thiết lập thêm một cơ chế hòa giải nữa nhưng lại không mâu thuẫn hay triệt tiêu với cơ chế hòa giải khác.
Cũng theo ĐB, thực tế khảo sát thí điểm hòa giải, đối thoại ở Hà Nội vừa qua thấy rất hiệu quả, lại mất ít thời gian. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, trong 3 năm, chỉ có 4 huyện có án hành chính tiến hành đối thoại được. Nhưng qua thí điểm hòa giải này 6 tháng đầu năm đã hòa giải được 44 vụ, đây là kết quả rất ấn tượng.
Khẳng định đây là một cơ chế mới và hoàn toàn hiệu quả, không mâu thuẫn với các quy định hiện hành, ĐB Thủy nêu ví dụ: Qua khảo sát, tiếp xúc với các Hòa giải viên thấy rất ấn tượng khi có nhiều vụ việc đương sự đưa đơn khởi kiện, sau khi được hòa giải các bên nhanh chóng tìm được tiếng nói chung và mọi việc giải quyết rất nhanh, không tốn thời gian. Khi tiếp cận đơn và vụ việc, Hòa giải viên có thể phân tích điểm đúng sai để các bên nhận ra, nhưng Thẩm phán thì không thể làm được điều đó vì sẽ vi phạm tố tụng.
Giảm áp lực cho Tòa án, tốt cho dân
ĐB Nguyễn Hữu Chính, Ủy viên UBTP cũng cho rằng, trên góc độ thực tế chúng ta cần quan tâm hiệu quả công việc mà cơ chế này mang lại. Hiện chúng ta có Luật Hòa giải ở cơ sở, các Luật về tố tụng, nhưng thực tế ở Hà Nội, qua số liệu thống kê cho thấy, số lượng án mà Tòa án giải quyết hàng năm: Từ 2015, thụ lý giải quyết 21.000 vụ, năm 2016 là 26.000 vụ và năm 2019 là 40.000 vụ, cho thấy số lượng án lớn và tăng nhanh hàng năm, nhưng biên chế không tăng, nên công việc của Tòa án quá tải và áp lực. Qua tổ chức thí điểm đến kết quả số vụ hòa giải thành là trên 5.000 vụ. Thời gian để hòa giải thành ngắn hơn rất nhiều so với quy trình tố tụng. Nên việc xây dựng Luật này không mâu thuẫn với Luật khác lại giảm tải cho Tòa án.
ĐB Hoàng Văn Hùng, Phó trưởng Đoàn ĐBQH Thái Nguyên cho hay, ông là người từng va chạm nhiều trong lĩnh vực hòa giải cơ sở, thấy rằng đây là biện pháp rất khả thi và vô cùng cần thiết. Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là chế định mới, nhưng không mâu thuẫn với Luật nào. Hoạt động theo hình thức huy động nguồn lực xã hội, vừa tiết kiệm kinh phí cho Nhà nước, vừa giảm áp lực cho các cơ quan công quyền.
Ngoài ra, qua khảo sát các Tòa án và lãnh đạo địa phương như Hải Phòng, thấy rằng địa phương đánh giá cao và ủng hộ cơ chế này có nghĩa là bản thân công tác hòa giải, đối thoại đã thể hiện được tính ưu việt của mình. Các tỉnh khác thí điểm cũng có kết quả tương tự. Như vậy, rõ ràng cơ chế này đạt hiệu quả xã hội cao và giải quyết áp lực rất lớn cho ngành Tòa án, ĐB Hùng cho biết.
Theo ĐB Hoàng Văn Hùng, qua thí điểm, kết quả hòa giải thành trên 70% là khá cao, về mặt pháp lý không vi hiến hay mâu thuẫn với luật khác. Hơn nữa án hành chính hiện nay đang có vướng mắc về vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng của Chủ tịch UBND. Cơ chế này áp dụng sẽ mềm mại hơn, không nhất thiết phải Chủ tịch UBND tham gia đối thoại mà có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch hoặc cán bộ chuyên môn tham gia.
ĐB Hoàng Văn Liên, Phó Chủ nhiệm UBTP cũng cho rằng: Thực tế lượng việc Tòa án phải giải quyết tăng rất nhiều, năm sau cao hơn năm trước, nhân lực có hạn nên phải tìm đến phương thức nào đó khả thi. Chính vì vậy đánh giá cao TANDTC đã nghiên cứu, lựa chọn phương pháp hòa giải, đối thoại này. Hơn nữa theo quy trình tố tụng giải quyết vụ việc dân sự là từ 2-4 tháng, nhưng thời hạn hòa giải theo Luật này là 20 ngày đối với những vụ việc bình thường, phức tạp hơn là 30 ngày, người dân sẽ được hưởng lợi. Ngoài ra, còn rất nhiều tích cực khác như có thể giải quyết nhanh gọn hơn thời hạn trên tùy từng vụ việc và giữ được bí mật cho đương sự, nhất là tranh chấp kinh tế.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, một số ý kiến băn khoăn về tính khả thi của Luật này. Các ĐB cũng đề nghị phân biệt rõ sự khác biệt của thiết chế hòa giải này, với các thiết chế hòa giải hiện nay; Xác định địa vị pháp lý của Hòa giải viên ra sao, bộ máy làm việc… cũng cần làm rõ. Hiện nay kết quả thí điểm rất thành công, nhưng đa số những vụ việc hòa giải thành là lĩnh vực hôn nhân gia đình; vụ việc liên quan đến dân sự, hành chính ít. Sẽ có nhiều vấn đề phức tạp liên quan như thi hành các quyết định công nhận hòa giải thành hay hòa giải xong rồi nhưng đương sự lại không đồng ý…
Chủ nhiệm UBTP Lê Thị Nga cũng cho biết, đa số các thành viên trong UBTP đồng tình quan điểm cần thiết xây dựng Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và đề nghị TANDTC cần tiếp thu các ý kiến đóng góp của các ĐB và hoàn thiện dự thảo Luật trình UBTVQH, Quốc hội cho ý kiến trong kỳ họp tới.