Sáng 6/8, TAND TP HCM đã tuyên án vụ Phạm Công Danh và đồng phạm về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
Theo nội dung vụ án, năm 2013 và 2014, Phạm Công Danh giữ chức vụ Chủ tịch HĐQT VNCB và Chủ tịch HĐTV kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn Thiên Thanh nên không thể vay trực tiếp tại ngân hàng VNCB.
Do cần có tiền sử dụng, Phạm Công Danh đã chỉ đạo lãnh đạo, nhân viên VNCB và nhân viên thuộc Tập đoàn Thiên Thanh sử dụng 29 lượt công ty do Danh thành lập hoặc mượn pháp nhân, lập 29 hồ sơ khống đứng tên các công ty đó vay vốn tại các ngân hàng Sacombank, TPBank và BIDV.
Đồng thời, Danh dùng tiền của VNCB gửi sang 3 ngân hàng này để cầm cố, bảo lãnh cho các khoản vay của các công ty mà Danh mượn pháp nhân. Sau đó, các khoản vay này bị 3 ngân hàng trên thu hồi nợ từ tiền gửi của VNCB với tổng số tiền là hơn 6.100 tỷ đồng. Trong đó, Sacombank là hơn 1.800 tỷ đồng, TP Bank là hơn 1.740 tỷ đồng và BIDV là hơn 2.500 tỷ đồng.
Toàn bộ số tiền các công ty vay từ 3 ngân hàng được Danh chỉ đạo sử dụng cho các mục đích cá nhân của mình.
Do các công ty này làm hồ sơ vay khống, không thực hiện kinh doanh theo phương án đã cam kết trong hợp đồng tín dụng nên không có tiền trả nợ.
Trong khi đó, ngân hàng VNCB thực hiện việc bảo lãnh nhưng không yêu cầu cầm cố, thế chấp tài sản nên không thu hồi được tiền bảo lãnh từ các công ty đó, dẫn đến ngân hàng VNCB bị thiệt hại hơn 6.100 tỷ đồng.
HĐXX cho rằng, tại phiên tòa, các bị cáo đều thừa nhận hành vi theo mỗi nhận thức khác nhau. Tuy nhiên, các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét về bối cảnh phạm tội của các bị cáo khi đưa ra mức lượng hình.
Đối với nhóm bị cáo là nguyên cán bộ lãnh đạo của VNCB: Phạm Công Danh là người đề ra chủ trương và chỉ đạo việc lập khống hồ sơ vay gửi hơn 6.630 tỷ đồng của VNCB sang thị trường 2 tại 3 ngân hàng Sacombank, TPBank, BIDV và dùng số tiền đó cầm cố, bảo lãnh, trả nợ thay cho các công ty vay tiền tại 3 ngân hàng đó lấy tiền để Danh sử dụng.
HĐXX tuyên án các bị cáo
Hành vi của Phạm Công Danh đã gây thiệt hại hơn 6.126 tỷ đồng của VNCB nên phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số tiền này.
Tại phiên tòa, đại diện CB (tiền thân là VNCB) yêu cầu tất cả các tổ chức và các cá nhân liên quan, các ngân hàng có liên quan liên đới bồi thường số tiền hơn 6.100 tỷ đồng cho CB.
Còn đại diện 3 ngân hàng cho rằng, việc thu nợ tiền gửi của VNCB là đúng theo hợp đồng 3 bên nên đề nghị HĐXX không tuyên thu hồi. Các cán bộ ngân hàng đã thực hiện đúng quy trình và quy định nên đề nghị HĐXX xem xét.
Sau khi nêu và phân tích các tình tiết của vụ án, HĐXX nhận định, số tiền 29 công ty vay của 3 ngân hàng nên số tiền này phải được xem là vật chứng vụ án. Theo đó, số tiền vật chứng phải thu hồi lại chính là số tiền mà Phạm Công Danh đã sử dụng sau khi vay tại 3 ngân hàng chứ không phải số tiền mà 3 ngân hàng dùng tiền gửi của VNCB để khấu trừ nợ.
Do đó, HĐXX không đồng ý với quan điểm của đại diện VKS giữ quyền công tố tại tòa cho rằng, 6.126 tỷ đồng là vật chứng của vụ án nên tuyên thu hồi số tiền này từ Sacombank, TPBank, BIDV, để trả lại cho CB.
HĐXX nhận định, toàn bộ số tiền trên 6.100 tỷ đồng này vay được từ Sacombank, BIDV, TPBank, bị cáo Danh đều sử dụng cho mục đích cá nhân nên vật chứng của vụ án là số tiền Danh vay được và đã sử dụng. Do đó, vật chứng của vụ án không phải là số tiền thu hồi nợ từ VNCB của Sacombank, BIDV, TPBank như đại diện VKS đề nghị.
Theo HĐXX, điều này là phù hợp với Kết luận giám định của NHNN nêu rằng, 3 ngân hàng không bị thiệt hại.
Từ đó, HĐXX đã tuyên thu hồi hàng ngàn tỷ đồng từ nhiều nguồn khác do Phạm Công Danh dùng từ khoản vay 6.126 tỷ đồng để chi trả, gồm: bà Hứa Thị Phấn 600 tỷ đồng; hơn 194 tỷ đồng từ ông Trần Quí Thanh; 2.371 tỷ đồng từ VNCB (nay là CB); hơn 338 tỷ đồng từ Công ty Hải Tiến; hơn 1.500 tỷ đồng từ BIDV… và phần lớn số tiền còn lại HĐXX buộc thu hồi từ bị cáo Danh và Tập đoàn Thiên Thanh.
Các bị cáo nghe tuyên án
Về 4.500 tỉ đồng bị cáo Danh dùng từ hành vi phạm tội chuyển về VNCB nhằm tăng vốn điều lệ cho VNCB nhưng không được NHNN đồng ý, nay bị cáo Danh đòi CB phải trả lại để khắc phục hậu quả cho vụ án. Theo HĐXX, hồ sơ vụ án cho thấy, 4.500 tỷ đồng đã được Danh chuyển vào VNCB nhưng đến nay, vốn điều lệ của CB vẫn 3.700 tỷ đồng. Từ đó, HĐXX buộc CB phải trả lại 4.500 tỷ đồng cho bị cáo Phạm Công Danh. Nhưng do HĐXX đã tuyên thu hồi 2.371 tỉ đồng được xem là vật chứng của vụ án từ CB nên CB chỉ cần phải trả lại hơn 2.100 tỷ đồng cho Phạm Công Danh.
Tuy nhiên, bị cáo Danh đang còn phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án ở cả 2 giai đoạn của vụ án nên cần giữ lại số tiền hơn 2.100 tỷ đồng này của bị cáo Danh để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của bị cáo.
Sau khi phân tích đánh giá toàn bộ chứng cứ vụ án, HĐXX nhận định rằng, đủ cơ sở pháp luật chứng minh các bị cáo phạm vào tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Hành vi của Phạm Công Danh và các đồng phạm là nguy hiểm cho xã hội, gây hậu quả nghiêm trọng nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc.
Theo đó, HĐXX tuyên phạt Phạm Công Danh 20 năm tù về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tổng hợp hình phạt với bản án cũ, bị cáo phải chấp hành hình phạt là 30 năm tù.
Cùng tội danh, Trầm Bê (nguyên Phó Chủ tịch thường trực HĐQT, Chủ tịch HĐTD Sacombank) tuyên 4 năm tù; Phan Thành Mai (nguyên Tổng giám đốc VNCB) lĩnh 10 năm tù, tổng hợp hình phạt là 30 năm tù; Mai Hữu Khương (nguyên Thành viên HĐQT, nguyên Giám đốc VNCB chi nhánh Sài Gòn) tuyên 10 năm tù, tổng hợp hình phạt bản án cũ là 30 năm tù. Hoàng Đình Quyết (nguyên Phó giám đốc phụ trách VNCB chi nhánh Sài Gòn, Giám đốc VNCB chi nhánh Lam Giang) tuyên 3 năm tù, tổng hợp hình phạt bản án cũ là 22 năm; Nguyễn Quốc Viễn (Trưởng ban kiểm soát VNCB) lĩnh 5 năm tù, tổng hợp hình phạt bản án cũ là 14 năm. Phan Minh Tùng (Kế toán hành chính Tập đoàn Thiên Thanh) lĩnh 4 năm tù, tổng hợp hình phạt bản án cũ là 11 năm. Phan Huy Khang (nguyên Tổng giám đốc Sacombank) tuyên 3 năm tù.
36 bị cáo còn lại là giám đốc các công ty “ma”, giám đốc, phó giám đốc các ngân hàng lĩnh 2-4 năm tù và cho hưởng án treo.