Nhặt “sạn” sách giáo khoa Ngữ văn của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam

Minh Khang| 15/08/2021 16:21
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Năm học 2021-2022, sách giáo khoa lớp 6 của chương trình giáo dục phổ thông mới chính thức được áp dụng. Nhiều bộ sách mới của các nhà xuất bản đã được tung ra thị trường. Thế nhưng, câu chuyện “sạn” trong các bộ sách vẫn là vấn đề nhức nhối.

Vẫn câu chuyện nhặt “sạn”

Cẩu thả và thiếu tính khoa học, thậm chí thiếu tính giáo dục, thẩm mỹ ... trong việc lựa chọn nội dung đã liên tiếp xuất hiện trong việc lựa chọn nội dung đưa vào SGK Ngữ Văn lớp 6, bộ Kết nối tri thức năm nay (do TS Bùi Mạnh Hùng làm Tổng chủ biên).

Nếu năm ngoái, hàng loạt lỗi sai đã được báo chí và dư luận xã hội góp ý cho SGK của NXB GDVN không được sửa cho học sinh lớp 1 học, thì năm nay, các lỗi về SGK lớp 2, lớp 6 cũng của bộ Kết nối tri thức với cuộc sống lại khiến phụ huynh và giáo viên thất vọng.

3(1).jpg

Hơn bất cứ loại tài liệu nào, SGK phải bảo đảm tính nhất quán cao. Mỗi tập sách có hẳn một bảng giải thích thuật ngữ (gọi là Phụ lục 2; trang 134 – 135, tập 1 và trang 111 – 112, tập 2). Tuy nhiên, nhiều định nghĩa trong bảng này không khớp với định nghĩa đã dạy học sinh ở các bài học.

Ở bài học về truyền thuyết, SGK định nghĩa: “Truyền thuyết là loại truyện dân gian kể về các sự kiện và nhân vật ít nhiều có liên quan đến lịch sử, thông qua sự tưởng tượng, hư cấu” (trang 4, tập 2). Nhưng đến bảng phụ lục thì truyền thuyết từ “truyện dân gian” bỗng trở thành “truyện cổ dân gian” và các đặc điểm nghệ thuật được đảo vị trí thành “hư cấu, tưởng tượng”, chứ không phải “tưởng tượng, hư cấu” nữa. Đáng nói, bảng phụ lục cắt nghĩa “hư cấu” là “tưởng tượng”.

Ở bài học về văn bản đa phương thức, SGK định nghĩa: “Văn bản đa phương thức là loại văn bản có sử dụng phối hợp phương tiện ngôn ngữ và các phương tiện phi ngôn ngữ như kí hiệu, sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh,…” (trang 77, tập 2). Đến bảng phụ lục, bỗng nhiên định nghĩa được bổ sung thêm một phương tiện nữa là “âm thanh”. Hai định nghĩa chỉ thống nhất với nhau ở một điểm rất khó hiểu: Mặc dù gọi loại văn bản này là “văn bản đa phương thức” nhưng nội dung định nghĩa cho thấy đó là văn bản “đa phương tiện”, chứ không phải “đa phương thức”. Nếu học sinh thắc mắc: “Các văn bản đa phương thức này được tạo ra bằng những phương thức nào?”, chắc thầy cô khó mà giải thích nổi.

Linh hồn của SGK Ngữ văn là các sáng tác văn học, vì vậy, việc giới thiệu tác giả của những sáng tác này cũng cần được quan tâm thỏa đáng. Nhưng đọc hai tập Ngữ văn 6, độc giả không khỏi bất ngờ là một số nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đức Mậu chỉ được giới thiệu vắn tắt bằng một dòng chú thích dưới chân trang. Còn một nhà thơ trẻ lần đầu có sáng tác được đưa vào SGK lại được giới thiệu với rất nhiều lời có cánh. Trong khi đó, một số tác giả nước ngoài, dù không phải những tên tuổi lớn trên thế giới, thì được giới thiệu trân trọng kèm cả ảnh chân dung ở phần nội dung chính (ví dụ, trang 66, tập 2).

1(3).jpg

Các tên riêng nước ngoài và từ mượn trong sách cũng có tình trạng mỗi từ viết một kiểu. Ví dụ: Các nhà thơ, nhà văn nước ngoài, người thì được đưa tên gốc bên cạnh tên phiên âm, ví dụ: Ra-bin-đơ-ra-nát Ta-go (Rabindranath Tagore); người thì chỉ trần sì có cái tên phiên âm, như: Han Cri-xti-an An-đéc-xen, Giong-mi Mun, Ra-xun Gam-da-tốp,…

Giải thích tuỳ tiện

Theo các tác giả, “Thủy đình: đình được xây trên mặt nước” (trang 14, tập 2). Cách giải thích này là chưa thực chuẩn xác, sơ sài có thể khiến học sinh không hiểu và dùng từ chính xác. Thủy đình thường được nhắc đến là sân khấu biểu diễn của nghệ thuật biểu diễn múa rối nước, với một đình nhỏ dựng trên mặt nước.

Trang 35 giải thích “đàm đạo” là “nói chuyện, trao đổi với nhau một cách thân mật”. Liệu một cuộc trò chuyện giữa hai đứa trẻ có được gọi là “đàm đạo” không? Ngay cả khi hai người lớn hỏi thăm nhau về sức khỏe, gia đình thì đó cũng đâu có phải là “đàm đạo”? Giải nghĩa như SGK Ngữ văn 6 thì học sinh dùng từ thế nào?

Trang 71 giải thích “mợ” là “từ dùng để gọi mẹ trong gia đình trung lưu thời trước”. Giải thích như vậy thì học sinh sẽ hiểu lời vú già trong truyện: “Mợ còn đi ăn cỗ đến trưa mới về” thế nào? Nhân vật “mợ” trong truyện đâu có phải “mẹ” của vú già? Chưa kể, giải thích như SGK thì các gia đình thượng lưu có dùng từ “mợ” để gọi dâu con trong nhà không?

Trang 110 trích du ký “Cô Tô” của Nguyễn Tuân: “Tiếng gió càng ghê rợn mỗi khi nó thốc vào, vuốt qua những gờ kính nhọn còn dắt ở ô cửa vỡ. Nó rít lên rú lên như cái kiểu người ta vẫn thường gọi là quỷ khốc thần linh”. Trong khi đó, thành ngữ này chuẩn là quỷ khốc thần kinh (quỷ khóc, thần khiếp sợ) chứ không phải quỷ khốc thần linh. Giả sử nếu nhà văn có dùng thành ngữ không đúng, thiết nghĩ SGK cũng nên đính chính để không gieo vào đầu học sinh một cách viết sai.

2(3).jpg

Trang 116 giải thích thành ngữ “thương hải tang điền” là “bãi bể (biến thành) nương dâu, chỉ những biến đổi lớn lao”. Theo Từ điển tiếng Việt, “bãi” là “khoảng đất bồi ven sông, ven biển hoặc nổi lên ở giữa dòng nước lớn”. Trong câu chữ của thành ngữ “thương hải tang điền”, không hề có từ nào chỉ “bãi biển”. “Thương hải” chỉ đơn giản là “biển xanh” thôi, chứ không phải là “bãi biển”. Nơi xưa kia là biển mà nay biến thành nương dâu thì biến chuyển như thế mới đáng gọi là “biến đổi lớn lao” chứ! Còn một bãi bồi, dù là bãi sông hay bãi biển, biến thành nương dâu thì có gì đáng gọi là “biến đổi lớn lao”?

- Trang 119 giải thích “đạo sĩ” trong câu thơ của Nguyên Hồng “Gậy thần tiên và cánh tay đạo sĩ” như sau: “ở đây chỉ hình ảnh người thầy được ngưỡng mộ trong mắt học trò”. Nếu SGK không giải thích nghĩa đen của từ “đạo sĩ” thì học sinh khó có thể hiểu được từ này liên hệ với từ “thần tiên” thế nào và vì sao trong câu thơ ấy thầy giáo lại được ví như một vị đạo sĩ.

Tập 2 cũng có nhiều điểm khiến người đọc băn khoăn.

Trang 11 giải thích “lạc hầu” là “quan văn giúp việc cho Vua Hùng”. Tuy nhiên, theo “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học thì “lạc hầu” là “chức quan cao nhất thời Hùng Vương” (trang 535); “lạc tướng” là “người đứng đầu một bộ lạc thời Hùng Vương” (trang 536). Còn theo quyển “Đại cương lịch sử Việt Nam toàn tập” (Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, NXB Giáo dục, 2001) thì mãi cho đến khi Lý Nam Đế giành được độc lập, lên ngôi Hoàng đế (năm 544), nhà vua mới phong Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ. Triều đình thời Hùng Vương liệu đã có hai ban văn võ?

- Trang 74 giải thích “tâm địa” như sau: “lòng dạ của con người (thường là xấu xa, hiểm độc)”. Sách dạy học sinh như vậy thì làm sao các em còn có niềm tin vào con người? Nếu muốn giải thích là từ “tâm địa” thường được dùng với ý nghĩa tiêu cực thì sao không viết rõ ra: “lòng dạ con người (thường được dùng với nghĩa xấu)”?

- Trang 86 dạy học sinh về từ mượn như sau: “Một số từ mượn các ngôn ngữ châu Âu được Việt hóa gần như hoàn toàn, nhất là những từ đơn như săm, lốp, bom,…”. Theo tìm hiểu, trong tiếng Pháp, “enveloppe” chắc chắn không phải từ đơn, còn “chambre à air” không những không phải từ đơn mà là một cụm từ hẳn hoi. Chỉ khi các từ ngữ ấy được người Việt Nam mượn và Việt hóa thành “lốp”, “săm” thì các từ mượn này mới là từ đơn.

Bao giờ hết lỗi ? Hoặc bao giờ ít lỗi? - Đó là câu hỏi đặt ra với Tổng chủ biên và các tác giả SGK Ngữ Văn bộ Kết nối tri thức với cuộc sống khi làm sách cho học sinh học.

Việc dễ dãi , tùy hứng và cẩu thả ... trong biên soạn SGK là sự tối kỵ. Bởi HS cần phải được học bộ sách chuẩn về tri thức, có tính giáo dục cao, có tính thẩm mỹ và tính nhân văn thực sự thì mới lay thức, nuôi dưỡng tâm hồn các em. Tuy nhiên, điều đó phụ thuốc vào trình độ, trách nhiệm và tâm huyết của người biên soạn sách- nhất là biên soạn SGK Ngữ Văn.

Trước những hạt sạn đó, nhiều phụ huynh lo lắng rằng sách giáo khoa còn không nhất quán thì lấy gì làm cơ sở để học sinh học. Trong khi đó, ở các kỳ thi như tuyển sinh vào lớp 10, thi tốt nghiệp THPT, Bộ GDĐT luôn nhấn mạnh việc ra đề phải căn cứ vào chương trình sách giáo khoa, không đánh đố, không ngoài chương trình sách giáo khoa.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Nhặt “sạn” sách giáo khoa Ngữ văn của Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam