Mục tiêu của tranh tụng nhằm giúp Tòa án xác định đúng đắn sự thật khách quan của vụ án, đưa ra những phán quyết có căn cứ đúng pháp luật, thấu tình đạt lý trong các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động...
Đối với các vụ án hình sự phải bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Muốn đạt được mục tiêu trên thì việc tranh tụng phải dựa trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu hồ sơ vụ án và kết quả thẩm vấn trực tiếp, công khai tại phiên tòa nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Kỳ 2: Một số định hướng nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án
Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình trao quyết định bổ nhiệm của Chủ tịch nước cho các Thẩm phán
Để nâng cao chất lượng và thực hiện tốt việc tranh tụng tại Tòa án cần thiết phải có một hệ thống các bảo đảm về pháp lý, về tổ chức và cơ sở vật chất phù hợp, khả thi trong điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay, cụ thể theo một số định hướng cơ bản sau:
I- HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
Hoạt động xét xử ở nước ta chủ yếu theo mô hình tố tụng kết hợp giữa tố tụng “thẩm vấn” và tố tụng “tranh tụng”, do vậy, cần hoàn thiện pháp luật tố tụng (cả tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính...) theo hướng ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng được thể hiện xuyên suốt trong quá trình tố tụng, từ giai đoạn thụ lý vụ án đến giai đoạn thu thập chứng cứ và giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án nhân dân.
1- Về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính:
Việc sửa đổi các luật tố tụng phải thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng. Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ: “quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta nêu rõ sự kiểm soát quyền lực và tại Điều 102 của Hiến pháp 2013 đã quy định rành mạch: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Vì vậy, cần quy định rõ trong các Luật tố tụng về quyền kiểm soát của Tòa án nhân dân thông qua hoạt động xét xử, nếu Tòa án phát hiện các văn bản trái với Hiến pháp và pháp luật.
Đồng thời, Kết luận số 92-KL/TW của Bộ Chính trị cũng đã nêu: “Xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp”. Vì vậy, trong các Luật tố tụng tư pháp tới đây, cũng cần cụ thể hóa cơ chế về sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan Điều tra, Kiểm sát, Tòa án trong thực hiện các hoạt động tư pháp. Theo định hướng cải cách tư pháp của Đảng, “Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm” của hoạt động tư pháp. Về nguyên tắc, quyền tư pháp của Tòa án nhân dân được thực hiện trong suốt quá trình tố tụng từ điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do đó, khi sửa đổi, bổ sung các luật tố tụng thì cùng với nguyên tắc “tranh tụng, công bằng trong xét xử”, cần ghi nhận nội dung “Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm” như một nguyên tắc cơ bản của các luật tố tụng.
2- Về giới hạn của việc xét xử tại Tòa án:
Hiến pháp 2013 đã quy định cụ thể các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử tại Tòa án là: Độc lập xét xử, đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa và nguyên tắc suy đoán vô tội; do đó, không ai có quyền hạn chế giới hạn phán quyết của Tòa án, can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về việc bị cáo có tội hay không có tội, tội nặng hay tội nhẹ. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự thì Điều 196 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành lại quy định: Khi xét xử sơ thẩm, “Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”. Nếu tội danh mà Viện kiểm sát truy tố mâu thuẫn với kết quả tranh tụng tại phiên tòa thì điều luật này mặc nhiên trái với quy định của Hiến pháp 2013: “Nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa được bảo đảm”, trái với các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp: “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Trên thực tế, trong quá trình xét xử, Tòa án phát hiện các bị cáo đã phạm một tội khác có mức án cao hơn mức mà Viện kiểm sát truy tố, nhưng Tòa án vẫn phải tuyên bị cáo phạm tội theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố có mức án thấp hơn. Do đó đã gây sự hoài nghi cho xã hội, khiến dư luận không đồng tình, nhất là đối với các tội phạm về tham nhũng, tội phạm có tổ chức. Vì vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung quy định trên theo hướng “Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử”, không nên giới hạn tội danh nặng hay nhẹ, hạn chế sự phán quyết đúng pháp luật của Tòa án. Mặt khác, thông qua quá trình xét xử, tranh tụng tại Tòa án, Hội đồng xét xử phát hiện có hành vi phạm tội mới thì Tòa án có quyền khởi tố vụ án ngay tại phiên tòa để tiến hành điều tra làm rõ, giải quyết triệt để vụ án. Điều này hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án theo nội dung Hiến định.
3- Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung và thẩm quyền điều tra của Tòa án:
Theo quy định của Hiến pháp 2013, Tòa án thực hiện quyền tư pháp, chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền tuyên án bị cáo có tội hay không có tội. Vì vậy, trước khi xét xử, Tòa án phải xem xét tính đúng đắn, chính xác của các căn cứ, chứng cứ; và Tòa án phải đảm bảo rằng mọi căn cứ, chứng cứ đó phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục theo luật định. Thực tế thời gian qua, việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn nặng hình thức, chưa thực sự có kết quả, có trường hợp hồ sơ bị trả lại đến 3,4 lần nhưng kết quả điều tra vẫn không có gì mới so với ban đầu, không đáp ứng yêu cầu trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành quy định thời hạn điều tra bổ sung không quá 1 tháng và chỉ được tiến hành trả hồ sơ không quá 2 lần trong một vụ án. Do đó, cần phải sửa đổi chế định này theo hướng: Tòa án chỉ trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần trong trường hợp phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hoặc chưa đủ căn cứ chứng minh tội phạm; trường hợp Tòa án đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, nhưng cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân không bổ sung hoặc bổ sung không đầy đủ thì Tòa án có quyền trực tiếp điều tra làm rõ, rút ngắn được thời gian giải quyết vụ án, tiết kiệm thời giờ, tiền bạc của Nhà nước và công dân (Việc điều tra của Tòa án được tiến hành bởi các Thẩm phán điều tra, các Thẩm phán này không thực hiện nhiệm vụ xét xử).
Trong trường hợp nếu cơ quan Công an, Viện kiểm sát tiến hành điều tra, Tòa án trực tiếp điều tra mà vẫn không chứng minh được chứng cứ của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát vẫn truy tố, thì Tòa án yêu cầu cơ quan điều tra đình chỉ vụ án hoặc Tòa án có quyền tuyên bị cáo vô tội tại phiên tòa.
4- Về thành phần Hội đồng giám đốc thẩm; phạm vi, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm; Hiệu lực của quyết định giám đốc thẩm của TANDTC:
- Về thành phần Hội đồng giám đốc thẩm: Để phù hợp với dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), về thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, các luật tố tụng cần sửa đổi theo hướng “Hội đồng xét xử gồm 3 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể” (đối với Tòa án nhân dân cấp cao) và “Hội đồng xét xử gồm 5 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể” (đối với Tòa án nhân dân tối cao);
- Về phạm vi giám đốc thẩm: Nên giữ nguyên như các luật hiện hành là: Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị, tạo điều kiện cho Tòa án xem xét vụ án một cách toàn diện, khách quan, đưa ra được quyết định đúng đắn, đúng pháp luật, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý một cách đầy đủ.
- Về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm: Cần sửa đổi, bổ sung theo hướng Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm có sai lầm nghiêm trọng trong trường hợp hồ sơ đã có đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh sự thực khách quan của vụ án; và quyết định giám đốc thẩm trong trường hợp sửa án là có căn cứ, đúng pháp luật, khắc phục tình trạng vụ án quay trở lại xét xử ở cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm, nhưng kết quả giống như lần xét xử trước mà không theo đường lối của quyết định giám đốc thẩm, gây tốn kém và kéo dài thời gian giải quyết vụ án (Trong thực tế đã có những vụ án qua nhiều vòng tố tụng, kéo dài hàng chục năm vẫn chưa kết thúc). Quy định này không mâu thuẫn với khoản 6 Điều 103 Hiến pháp 2013 là “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” vì bản án đã qua hai cấp xét xử, Toà án nhân dân tối cao thực hiện quyền năng Hiến định là cơ quan xét xử cao nhất thì phải có thẩm quyền được sửa án. Vì vậy, cần sửa nguyên tắc “thực hiện chế độ hai cấp xét xử” được quy định trong luật hiện hành thành “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm”.
Điều này có nghĩa là: Một vụ án phải được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nếu có kháng cáo, kháng nghị); hình thức xét xử sơ chung thẩm đã không còn được áp dụng. Cấp Giám đốc thẩm có quyền sửa bản án (tương tự như quy định pháp luật của một số nước trên thế giới là: Cấp phúc thẩm được xét xử đến lần thứ hai; Hội đồng giám đốc thẩm có quyền sửa bản án nếu thấy có căn cứ, đúng pháp luật; Các quyết định này của Hội đồng giám đốc thẩm được tuyển chọn, xây dựng và phát triển thành án lệ)
- Về hiệu lực Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: Khoản 1 Điều 104 Hiến pháp 2013 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Do đó, Quyết định Giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất. Trong trường hợp có căn cứ xác định Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có vi phạm pháp luật, hoặc có tình tiết quan trọng mới, thì quyết định này vẫn có thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tự mình xem xét lại theo thủ tục đặc biệt quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính, nhằm thực hiện nguyên tắc của Hiến pháp năm 2013: Tòa án có nhiệm vụ “Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân”. Nếu phát hiện quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm có sai lầm nghiêm trọng thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ra kết luận (cần bổ sung quy định của Luật Bồi thường Nhà nước trong trường hợp này, nghĩa là Tòa án phải bồi thường nếu có đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xâm hại về quyền và lợi ích hợp pháp). Song, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không có quyền ra quyết định kháng nghị, hoặc ra quyết định hủy chính quyết định của mình. Dự thảo Luật Tổ chức TAND sửa đổi (khoản 4 Điều 22) quy định: “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị” là phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 và thống nhất với Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính hiện hành.
5- Một số vấn đề khác về tố tụng cần sửa đổi:
Để tăng cường tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo cho Tòa án độc lập xét xử theo nội dung Hiến định, Dự thảo BLTTHS sửa đổi cần chú ý sửa đổi một số vấn đề khác như sau:
- Về trình tự và phạm vi xét hỏi, nên thay đổi thứ tự người thẩm vấn. Theo đó, vị Thẩm phán Tòa án giữ vai trò cầm cân công lý, đưa ra phán quyết phải dựa trên việc nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án, kết hợp với kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy Luật Tố tụng hình sự nên quy định Thẩm phán là người thẩm vấn sau cùng để làm rõ những vấn đề là bản chất của vụ án, nhưng Thẩm phán cũng có thể thẩm vấn vào bất cứ thời điểm nào nếu thấy cần thiết để làm rõ các chứng cứ, tình tiết vụ án. Đồng thời Thẩm phán, Hội đồng xét xử có thể quyết định tạm dừng phiên tòa để yêu cầu thu thập, xác minh thêm chứng cứ, triệu tập thêm người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; sau đó tiếp tục xét xử vụ án (bỏ qua việc trở lại phần thủ tục ban đầu để tiết kiệm thời gian và việc xét xử được thực hiện liên tục).
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa chỉ nên giữ quyền công tố, không nên có chức năng kiểm sát hoạt động xét xử. Việc kiểm sát hoạt động xét xử được thực hiện thông qua cơ chế khác cần được minh định khi sửa luật. Vị trí ngồi giữa bên buộc tội và gỡ tội nên có sự bình đẳng, đảm bảo công bằng trong phiên tòa v.v.
- Việc thu thập, giao nộp, xuất trình chứng cứ: Các quy định của pháp luật không hạn chế việc này, nhưng nên chăng pháp luật tố tụng cần quy định giới hạn của việc thu thập, giao nộp, xuất trình chứng cứ, chứng minh chứng cứ. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, các bên tham gia tố tụng cần thu thập, giao nộp, xuất trình chứng cứ cho Tòa án trong một thời hạn nhất định; nếu là chứng cứ mới thì nhất thiết phải chứng minh rõ ràng, có cơ sở để Tòa án xem xét. Trong các vụ án dân sự, các bên thu thập, giao nộp, xuất trình chứng cứ cho Tòa án thì đồng thời phải thông báo cho bên kia biết về những chứng cứ đó. Đây là quyền của đương sự được biết tài liệu chứng cứ của phía bên kia để chuẩn bị trình bày lý lẽ, căn cứ pháp luật, chứng minh chứng cứ tại Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Đối với việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự cần xây dựng Dự thảo theo hướng: Quy định chặt chẽ về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm, thủ tục cung cấp, giao nộp chứng cứ cho Tòa án của các bên đương sự; thời hạn giao nộp chứng cứ của đương sự do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định, nhưng phải có trước khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử ở cấp sơ thẩm (trừ trường hợp có trở ngại khách quan, bất khả kháng, không thể giao nộp chứng cứ đúng thời hạn). Tại phiên toà sơ thẩm hoặc giai đoạn xét xử phúc thẩm, đương sự có thể xuất trình chứng cứ mới được thu thập nhưng phải chứng minh rõ nguồn gốc và thời điểm chứng cứ mới được thu thập thì mới được công nhận là chứng cứ hợp pháp. Tòa án có thể tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ khi cần thiết để đảm bảo sự thật khách quan của vụ án (tránh việc đưa ra xét xử vụ án khi chưa đủ căn cứ, dễ dẫn đến sai lầm nghiêm trọng). Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ thẩm tra chứng cứ, xem xét toàn diện nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết cuối cùng.
Đồng thời, căn cứ vào các nguyên tắc, định hướng cơ bản nêu trên cần hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, tố tụng dân sự theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tranh tụng, sự bình đẳng của họ trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa; phạm vi xét xử của Tòa án tại phiên tòa; mở rộng phạm vi tố tụng cho người bào chữa tại phiên tòa; cần thiết phải quy định cụ thể các chế tài đủ mạnh, áp dụng đối với các hành vi vi phạm, cản trở, không đảm bảo cho việc tranh tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng (chẳng hạn đối với người đại diện của cơ quan, tổ chức, người làm chứng, người có trách nhiệm, nghĩa vụ liên quan... cố tình không đến phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, gây cản trở hoạt động xét xử của Tòa án thì bị áp giải, bị xử phạt hành vi vi phạm này). Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng về thủ tục, trình tự tranh tụng khi xét xử các loại vụ án tại phiên tòa...
II- KIỆN TOÀN ĐỘI NGŨ NHỮNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TẠI TÒA ÁN
Cần thiết phải kiện toàn đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Luật sư đáp ứng yêu cầu tranh tụng trong thực hiện chiến lược cải cách tư pháp. Theo đó, cần quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, bổ sung đủ số lượng, đảm bảo chất lượng chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp; thống nhất nhận thức về tranh tụng thực chất, dân chủ, vì công bằng, công lý đối với đội ngũ này. Mặt khác, nâng cao kỹ năng điều khiển tranh tụng, văn hóa tham gia tranh tụng đối với các chức danh tố tụng nêu trên.
Đồng thời, tại các cơ sở đào tạo các chức danh tư pháp cần đổi mới giáo trình đào tạo các chức danh tư pháp đối với người tiến hành tố tụng (Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư), trang bị cho họ các kỹ năng, các kiến thức cần thiết, đảm bảo đủ tiêu chuẩn chuyên môn và đạo đức, vững vàng về bản lĩnh bảo vệ công lý, tạo nguồn cho việc tranh tụng trước mắt và lâu dài.
III- TĂNG CƯỜNG CƠ SỞ VẬT CHẤT CHO TÒA ÁN, CHẾ ĐỘ ĐÃI NGỘ ĐỐI VỚI NHỮNG CHỨC DANH TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
Hiện nay cơ sở vật chất, trang thiết bị phương tiện kỹ thuật phục vụ cho việc tranh tụng tại phiên tòa chưa được bảo đảm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử. Những trang bị cần thiết như hệ thống âm thanh, máy ghi âm, ghi hình, máy tính, máy chiếu, màn hình trình bày chứng cứ... phục vụ cho tranh tụng tại phiên tòa còn chậm được trang bị. Mặt khác, chế độ bổ nhiệm, nhiệm kỳ công tác, các chế độ chính sách, chế độ tiền lương, phụ cấp của những người tiến hành tố tụng còn thấp so với tính chất lao động đặc thù của họ đã bỏ ra, ảnh hưởng đến sự độc lập và tinh thần trách nhiệm của họ trong xét xử nói chung, tranh tụng tại phiên tòa nói riêng.
IV- TĂNG CƯỜNG TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG NHÂN DÂN
Để nâng cao chất lượng tranh tụng tại Tòa án, công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật cho nhân dân là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân”. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Trong các định hướng nêu trên, việc hoàn thiện pháp luật tố tụng là công việc cấp bách, cần khẩn trương xây dựng các Dự thảo sửa đổi, bổ sung các Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính theo hướng phù hợp với các quy định của Hiến pháp năm 2013, các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đảm bảo cho việc tranh tụng tại Tòa án được thực chất, hiệu quả; để Tòa án nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 đã quy định.