Luật này thay thế Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 33/2002/QH10. Tính đến thời điểm hiện tại, Luật Tòa án nhân dân (TAND) 2014 được coi là mới nhất, vẫn còn giá trị hiệu lực và đang được áp dụng.
Luật Tổ chức TAND năm 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2014, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2015 (sau đây gọi là Luật).
Luật đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng về công tác Tòa án, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2014 về TAND. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển của TAND, bảo đảm Tòa án thực sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người. Sau 08 năm thi hành, Luật tạo ra những dấu ấn tích cực cho sự phát triển của nền tư pháp nước nhà.
Luật có 11 chương với 98 điều, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của TAND các cấp cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Thư ký tòa, Thẩm tra viên TAND. Gồm những nội dung cơ bản sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh: Theo tinh thần nhất thể hóa các luật, pháp lệnh về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân, Điều 1 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định: “Luật này quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân.”
2. Về chức năng, nhiệm vụ của TAND: Với tinh thần cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về TAND, bảo đảm Tòa án là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân...; bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thể chế hóa những định hướng của Đảng về cải cách tư pháp, tại Điều 2 của Luật tổ chức TAND đã quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND, trong đó có những nội dung mới, quan trọng; cụ thể là:
(1) Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật; xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong quá trình tố tụng; căn cứ vào kết quả tranh tụng ra bản án, quyết định việc có tội hoặc không có tội, áp dụng hoặc không áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp, quyết định về quyền và nghĩa vụ về tài sản, quyền nhân thân. Bản án, quyết định của TAND có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.
(2) Các quyền của Tòa án khi thực hiện nhiệm vụ xét xử vụ án hình sự.
(3) Trong quá trình xét xử vụ án, Tòa án phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm trả lời Tòa án kết quả xử lý văn bản pháp luật bị kiến nghị theo quy định của pháp luật làm cơ sở để Tòa án giải quyết vụ án.
Ngoài ra, tại Điều 2 của Luật tổ chức TAND cũng đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính, xử lý vi phạm hành chính, công tác thi hành án; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của luật.
3. Về nguyên tắc tổ chức hoạt động của TAND: Luật tổ chức TAND đã cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 103 của Hiến pháp, trong đó có những nguyên tắc mới quan trọng như nguyên tắc tranh tụng được bảo đảm trong xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội; đồng thời, bổ sung thêm nguyên tắc có tính chất đặc thù trong tổ chức và hoạt động của Tòa án đã được ghi nhận tại các văn kiện Đại hội Đảng gần đây và các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, cụ thể là “Các TAND được tổ chức độc lập theo thẩm quyền xét xử” (Điều 5).
4. Về tổ chức bộ máy của các TAND: Luật Tổ chức TAND đã thể chế hóa nội dung của Nghị quyết số 49-NQ/TW, Kết luận số 79-KL/TW, Kết luận số 92-KL/TW, Thông báo số 181-TB/TW của Bộ Chính trị về tổ chức Tòa án; theo đó, tổ chức TAND gồm: TANDTC; các TAND cấp cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương; các Toà án quân sự (Điều 3).
Tổ chức bộ máy của các Toà án được quy định theo hướng chuyên môn hoá nhưng linh hoạt, tránh cồng kềnh, gây tốn kém, lãng phí.
Ở TANDTC được tổ chức theo hướng tinh gọn với Hội đồng Thẩm phán TANDTC có từ 13 đến 17 Thẩm phán; ở TAND cấp cao, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ngoài các Tòa chuyên trách hiện có trong cơ cấu tổ chức của TAND như Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa hành chính, Tòa kinh tế, Tòa lao động, trong Luật tổ chức TAND lần này quy định thêm Tòa gia đình và người chưa thành niên để giải quyết các vụ việc có liên quan đến người chưa thành niên; Ở TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có thể có Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa gia đình và người chưa thành niên, Tòa xử lý hành chính.
Tuy nhiên, việc thành lập các Tòa chuyên trách này ở TAND cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện cụ thể nào phải căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức của từng Tòa án và do Chánh án TANDTC quyết định. Trường hợp do yêu cầu thực tế xét xử, cần thành lập thêm Tòa chuyên trách khác trong TAND cấp cao, TAND tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Chánh án TANDTC đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Luật tổ chức TAND 2014 số 62/2014/QH13 đang áp dụng
5. Về phân định thẩm quyền của các TAND: Theo Luật, TANDTC không thực hiện nhiệm vụ xét xử phúc thẩm mà chỉ thực hiện nhiệm vụ giám đốc việc xét xử của các Tòa án khác; xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm bằng Hội đồng xét xử gồm 5 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Thẩm phán TANDTC; tổng kết thực tiễn xét xử; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; quản lý các Toà án về tổ chức; xây dựng pháp luật theo sự phân công của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; bổ sung nhiệm vụ đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác của Tòa án; đồng thời, để cụ thể hóa quy định tại khoản 1 Điều 104 của Hiến pháp về việc “TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, tại khoản 4 Điều 22 của Luật quy định: “Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là quyết định cao nhất, không bị kháng nghị”.
Bên cạnh các nội dung nêu trên, tại điểm c khoản 2 Điều 22 của Luật quy định Hội đồng Thẩm phán TANDTC có nhiệm vụ “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Quy định này sẽ đáp ứng yêu cầu phải kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, khắc phục tình trạng quá tải và chậm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật. Hơn nữa, việc công bố án lệ sẽ giúp người dân nắm rõ đường lối xét xử, dự báo được kết quả những vụ việc có liên quan đến quyền và lợi ích của họ.
Về phía Tòa án, tham khảo án lệ, phân tích thiếu sót trong những vụ án xét xử trước đó cũng sẽ giúp Thẩm phán rút kinh nghiệm, hạn chế việc kết án oan, sai. Với việc lựa chọn, ban hành án lệ, xác định trách nhiệm của Thẩm phán và Hội đồng xét xử phải nghiên cứu, làm theo, chắc chắn sẽ có hiệu quả rất lớn trong việc hạn chế đến mức thấp nhất các vụ việc xét xử oan, sai, hạn chế việc “lách luật” do tiêu cực của những người tiến hành tố tụng, luật sư và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và do đó về mặt xã hội, việc xây dựng và phát triển án lệ là một trong những phương thức hữu hiệu để bảo đảm công lý, góp phần duy trì, ổn định trật tự pháp luật trong đời sống xã hội.
Về TAND cấp cao, theo quy định của Luật, TAND cấp cao có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị bằng Hội đồng 3 Thẩm phán hoặc Hội đồng toàn thể Uỷ ban Thẩm phán TAND cấp cao.
Về TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo quy định của Luật, TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của TAND sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị và xét xử sơ thẩm một số vụ án không thuộc thẩm quyền của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; không thực hiện nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đối với TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, theo quy định của Luật, TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương có nhiệm vụ, quyền hạn xét xử sơ thẩm hầu hết các vụ, việc thuộc thẩm quyền của Toà án và giải quyết các loại việc khác theo quy định của pháp luật.
Còn đối với Toà án quân sự, theo quy định tại Điều 49 của Luật, các Toà án quân sự được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để xét xử những vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ và những vụ án khác theo quy định của luật.
6. Về Thẩm phán: Trong Luật tổ chức TAND, các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện và trình tự, thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán đã có nhiều nội dung mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc Thẩm phán TANDTC do Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm; Thẩm phán các Tòa án khác do Chủ tịch nước bổ nhiệm; người muốn được bổ nhiệm làm Thẩm phán ngoài những điều kiện như trước đây còn phải có thêm điều kiện đã trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán, có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên (thay vì 04 năm như trước đây); Thẩm phán sơ cấp muốn được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán trung cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán trung cấp muốn được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán cao cấp phải trải qua kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán cao cấp.
Cùng với việc nâng cao các tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm Thẩm phán, Luật tổ chức Tòa án cũng quy định về việc Nhà nước có chính sách ưu tiên đối với Thẩm phán nhằm góp phần bảo đảm cho Thẩm phán yên tâm công tác, xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Về nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng được kéo dài hơn theo định hướng đã được xác định trong các văn kiện của Đảng; cụ thể: “Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.”
Bên cạnh các nội dung nêu trên, Luật tổ chức TAND quy định chỉ thành lập một Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia để bảo đảm chất lượng đồng đều giữa các ứng viên được tuyển chọn, đề nghị bổ nhiệm làm Thẩm phán; quy định thành lập Hội đồng thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp để tổ chức các kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán, kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán.
7. Về Hội thẩm: Các quy định về Hội thẩm cũng có những bổ sung quan trọng nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập hiện nay trong tổ chức và hoạt động của Hội thẩm TAND; bảo đảm việc tham gia của Hội thẩm vào công tác xét xử là phương thức để nhân dân thực hiện quyền tư pháp; đồng thời, thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử.
Theo đó, Luật tổ chức TAND không quy định việc Tòa án quản lý Hội thẩm mà Hội thẩm được tổ chức thành Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm hoạt động theo quy chế do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành (khoản 1 Điều 91).
Ngoài các nội dung nêu trên, trong Luật tổ chức TAND còn có các quy định cụ thể về các chức danh Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên; quy định về bảo đảm hoạt động của TAND và hiệu lực thi hành của Luật tổ chức TAND.