Biên giới - vùng đất tổ của hàng chục dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn hoài chứa trong mình những huyền thoại, đồng thoại và dã sử do dân gian lưu truyền trong bản sắc văn hóa tộc người.
Đi giữa trùng trùng trầm tích sẽ ngỡ ngàng nhận ra một miền dã sử chứa đựng những câu chuyện hàm chứa tính nhân văn sâu sắc, dẫu chúng có thể có thật và không có thật. Ý thức bảo vệ, giữ gìn bờ cõi quốc gia, đất đai cha ông để lại được truyền từ đời này sang đời khác qua những trang sử nhân gian một cách giản dị mà rất hiệu quả.
Câu chuyện nhỏ của người U Ní
Trong bảng định danh tộc người, nhóm người thuộc thành phần các dân tộc Việt Nam, người Hà Nhì ở vùng biên giới Bát Xát, Lào Cai được xếp vào nhóm Hà Nhì đen. Song, trò chuyện với chúng tôi, họ chỉ nhận mình là người U Ní bởi một lý do rất đáng tự hào gắn liền với huyền thoại về người anh hùng bảo vệ biên giới và câu chuyện về cây mộc miên hoa đỏ.
Theo các nghiên cứu dân tộc học, tổ tiên người Hà Nhì trước đây sống miền Nam Trung Quốc trên cao nguyên Thanh Tạng và là một trong những dân tộc đã thiết lập nên vương quốc Nam Chiếu hùng mạnh ở phía Tây Nam Trung Quốc. Vào thế kỷ 13, khi quân Nguyên Mông của hoàng đế Hốt Tất Liệt xâm chiếm miền Nam Trung Hoa, các sắc tộc tại quốc gia này đã nảy sinh nhiều xung đột, người Hà Nhì và một số dân tộc ít người khác dạt xuống vùng núi phía Bắc Việt Nam.
Đó là chính sử, còn dã sử của những người dân hiền lành dưới chân Nhìu Cồ san lại ghi một câu chuyện khác. Chuyện rằng, xưa thật là xưa, vùng đất địa đầu của người U Ní thường bị kẻ thù lẻn sang xâm lấn đất đai. Chúng thường lợi dụng lúc nửa đêm để nhổ cột mốc cắm vào sâu trong địa phận của người U Ní. Đón tôi bằng nụ cười món mén, cụ Chu Khởi Thềnh ở thôn Chỏn Thẻn kể bằng tiếng Hà Nhì cổ. Người cán bộ vận động quần chúng đồn biên phòng Y Tý dịch tiếng còn tiếng mất, tôi xin được “biên tập” lại cho văn hoa và rõ nghĩa thế này: “Ngày đó, để chống lại bọn giặc cướp đất, những thanh niên người U Ní đã đặt lời nguyền, nếu chiến đấu hy sinh, sẽ biến thành những cột mốc biên giới mà quân thù không thể nhổ đi được. Trời thấu tỏ lòng người, đã cho các vị thần gieo trên đất biên giới của chúng tôi những cây gạo. Từ đó, nắng lửa hay tuyết dày, cứ lập xuân là hoa gạo nở đỏ rực rỡ như máu người U Ní yêu nước dọc đường biên”.
Hoa gạo một góc trời biên giới
Cụ Thềnh còn quả quyết rằng, mỗi khi quân thù có ý định xâm lấn bờ cõi của người U Ni, những bông gạo lại rơi và cháy loá, khiến quân thù tưởng đó là linh hồn của những người lính U Ni hiển linh nên vội vàng tháo chạy, nhờ đó mà người U Ni thoát khỏi chiến tranh. Chưa cần biết độ xác tín của việc những bông gạo rơi khiến kẻ thù khiếp sợ đến đâu, nhưng chỉ nhìn ánh mắt rạng rỡ, đầy tin tưởng của bậc kỳ lão nơi vùng đất sương mù đã thấy ấm lòng và thêm tin vào niềm tin đầy nhân bản của người dân nơi đây.
Khi đến A Mú Sung, mùa lửa cháy trước mắt tôi đã gần tàn. Nhưng, những cây gạo vẫn khảm lên trời những đường kỉ hà vi diệu và hàng ngàn búp lửa rực rỡ. Không biết có thể dùng lời lẽ gì để có thể tả cho được cái cảm giác hân hoan giữa một trời hoa gạo vùng biên ấy, có thể tả cho được cái vẻ đẹp miên man trăm sắc ngàn hương của cảnh vật nơi đây. Thôi thì đành xin thầy Ma Văn Kháng cho trích một trường trong truyện ngắn “Hoa gạo đỏ” của thầy được in trang trọng trong tuyển tập “Nửa thế kỷ truyện ngắn và ký Biên phòng” do Bộ Tư lệnh BĐBP phát hành nhân kỉ niệm 50 năm ngày thành lập lực lượng. Câu chuyện viết về chính những người dân Hà Nhì cơ chỉ, nồng nàn yêu nước này đây.
“Suốt một rẻo biên giới, trên những nương lúa đã bỏ hóa, hoa gạo rừng rực cháy đỏ một vệt dài tít tắp. Trong cái ngẫu hứng tài tình của tự nhiên ấy, ta cứ nghĩ tới một sự sắp xếp cố tình của con người. Ôi chao! Thì ra, thiên nhiên cũng muốn tham gia vào đời sống con người. Biên giới không chỉ hoạch định bằng cột mốc mà còn bằng cây cỏ. Và như vậy, những hạt gạo, đuôi xòe lông tơ từ một miền nảo miền nào theo gió tán tới đây, giống như một hiện tượng chim đậu đất lành, lại như là có ý thức hẳn hoi trong việc xác định ranh giới Quốc gia…”.
Đâu chỉ có người U Ní, người Tày, Nùng ở Cao Bằng, người Lô Lô, Clao ở Hà Giang, người Thái, Sila ở Điện Biên, Lai Châu đều có những câu chuyện dân gian của dân tộc mình về loài hoa thắp lửa ấy… Hẳn cũng vì lẽ ấy mà trên những cung đường biên giới tôi đã qua, đều gặp những bông gạo thắm đỏ đến kiệt cùng, đỏ như màu cờ khẳng định chủ quyền, như ghi màu máu của bao người trẻ đã ngã xuống bên cây, để người phương xa ấm lòng và vững tin hơn khi nhìn màu hoa biên giới.
Bài ca đoàn kết trên đất Long Cư
Từng được dự một số lễ hội truyền thống của người Mông trên cao nguyên Đồng Văn, tôi nhận thấy trong các bài văn khấn của đồng bào đều có nhắc đến công ơn của người Lô Lô cổ đại và thực hiện nghi thức mời cơm tổ tiên người Lô Lô. Tôi đã hết sức tò mò vì vốn dĩ biết rằng ngoài tổ tiên của mình, hiếm khi người Mông thờ cúng những dân tộc khác. Đem thắc mắc ấy hỏi nhà thơ Hùng Đình Quý, người dân tộc Mông và đồng thời cũng là chàng rể quý của người Lô Lô, ông khẳng định: “Mối lương duyên giữa người Mông và người Lô Lô là mối lương duyên rất vĩ đại. Ba trăm năm trước, trong bối cảnh người Mông bị đánh đuổi, phải bỏ phương Bắc để chạy về phương Nam, trong tay không một tấc đất, bất chấp sự nguy hiểm đang rình rập phía sau, người Lô Lô đã mở rộng vòng tay, cưu mang người Mông. Chưa hết, khi người Mông xuống, những vùng đất ở phương nam phần lớn đã có chủ, người Lô Lô đã nhường đất của mình để người Mông có đất sinh sống”.
Người Mông và người Lô Lô sinh sống đoàn kết trên vùng đất Long Cư
Thời điểm đến với đất Việt của những người anh em Mông được chính sử minh định như sau: “Đợt thứ nhất, khoảng 100 hộ, thuộc các họ Lù, Giàng từ Quý Châu đến khu vực các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, thời gian vào quãng cuối đời Minh, đầu đời Thanh của lịch sử Trung Quốc, cách đây trên 300 năm. Đợt thứ hai, khoảng trên 100 hộ, trong đó có những hộ thuộc họ Vàng, họ Lý cũng vào khu vực Đồng Văn. Còn một nhóm khác số người ít hơn, thuộc các họ Vàng, Lù, Chấu, Sùng, Hoàng, Vừ vào khu vực Si Ma Cai, Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Thời gian của đợt di chuyển này cách đây trên 200 năm”. Từ 200 hộ đầu tiên đó, đến nay dân số người Mông Việt Nam đã lên đến trên 1 triệu người, sinh sống đoàn kết cùng các dân tộc anh em khác dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An và thậm chí là cả Gia Lai, Kon Tum… Nhiều con em dân tộc Mông đã góp sức lực, trí tuệ của mình cùng bảo vệ và dựng xây đất nước.
Dân ca Mông miêu tả: “Mưa nhẹ trên đường phố. Chó sủa Lô Lô về” để chỉ sự nhẹ nhàng, khôn khéo và dứt khoát trong tính cách người Lôlô, tạo nên những sắc thái riêng từ nếp sống, cách nghĩ đến việc làm. Còn dân tộc Mông thì vốn dĩ đã trải qua nhiều thăng trầm, thường xuyên phải đương đầu với địa hình hiểm trở, khắc nghiệt; có thói quen du cư để kiếm chỗ sinh nhai, trong định mệnh chạy đua với các tộc người khác để tìm đất sống… nên cá tính Mông có phần khoáng đạt, mạnh mẽ và dễ bùng phát. Vậy mà hàng trăm năm qua, dân tộc Lô Lô vẫn sống xem giữa cộng đồng dân tộc Mông một cách hiền hòa, gắn bó. Bản Lô Lô Chải và bản tột Bắc Séo Lủng nằm gần sát bên nhau như lời cam kết nhường đất năm xưa, cùng canh tác trên thung lung trồng ngô có tên gọi theo tiếng Mông là Long Cư.
Dưới chân cột cờ Lũng Cú, bài ca đoàn kết của tổ tiên Mông, Lô Lô vẫn đang được đắp xây bằng những câu chuyện xây dựng và bảo vệ biên giới hôm nay. Điệu khèn Mông dìu dặt và tiếng trống đồng Lô Lô vẫn hòa ca báo hiệu biên cương yên bình và no ấm.