Bản án, quyết định được công bố trên Cổng thông tin điện tử của TAND phải là bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; những bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị (bị kháng cáo, kháng nghị toàn bộ hoặc một phần) thì không được công bố.
Không công bố bản án, quyết định có chứa đựng nội dung thuộc danh mục bí mật Nhà nước; các bản án, quyết định có nội dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình được mã hóa nhằm bảo đảm bí mật.
Thông tin trong bản án, quyết định của Tòa án được mã hóa khi công bố
Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP về việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua ngày 17/2/2017; có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2017. Để bảo đảm thực hiện đúng và thống nhất Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP, lãnh đạo TANDTC đã ban hành Công văn số 144/TANDTC-PC ngày 4/7/2017 gửi các TAND, TAQS các cấp, các đơn vị thuộc TANDTC hướng dẫn việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của TAND. Việc xác định bản án, quyết định thuộc trường hợp được công bố hay không được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án căn cứ vào các Điều 2, 3 và 4 của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP.
Đối với bản án, quyết định có chứa đựng nội dung thuộc danh mục bí mật Nhà nước không được công bố theo hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 4 Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP, lãnh đạo TANDTC yêu cầu các Tòa án căn cứ vào Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2002; Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ngày 28/3/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước; Thông tư số 33/2015/TT-BCA ngày 20/7/2015 của Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 33/2002/NĐ-CP. Bên cạnh đó, các Tòa án cần bám sát các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tuyệt mật, Tối mật của các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương; các Quyết định, Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an về danh mục bí mật nhà nước độ Mật của các cơ quan, tổ chức ở trung ương, địa phương và các quy định khác của pháp luật về bí mật nhà nước; quy định tại Quyết định số 01/2004/QĐ-TTg ngày 5/1/2004 của Thủ tướng Chính phủ về danh mục bí mật nhà nước độ Tối mật của TAND thì không công bố những bản án, quyết định liên quan đến việc xét xử các vụ án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
TANDTC tổ chức Hội nghị trực tuyến tập huấn viết bản án cho TAND các cấp
Đối với các bản án, quyết định có nội dung liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình được công bố trên Cổng thông tin điện tử Tòa án, lãnh đạo TANDTC yêu cầu các Tòa án mã hóa theo hướng dẫn tại Điều 7 của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP và mục 2 Công văn số 144/TANDTC-PC để bảo đảm bí mật cá nhân, bí mật gia đình.
Việc mã hóa thông tin trong bản án, quyết định của Tòa án phải sử dụng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt (A, B, C ...), có thể kết hợp với số tự nhiên (1, 2, 3 ...) trong những trường hợp cần thiết và thực hiện theo đúng hướng dẫn tại Điều 7 của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP. Các thông tin được mã hóa phải bảo đảm không trùng lặp, không gây nhầm lẫn cho người đọc, không làm thay đổi nội đung của bản án, quyết định. Đối với những người tham gia tố tụng có vai trò quan trọng trong vụ án (như: bị cáo, bị hại trong vụ án hình sự; nguyên đơn, bị đơn trong vụ án dân sự; người khởi kiện, người bị kiện trong vụ án hành chính) thì việc mã hóa tên của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức cần sử dụng ký tự đầu tiên trong tên của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức đó. Trường hợp có từ 2 người tham gia tố tụng trở lên trùng tên hoặc chữ cái đầu tiên của tên nhưng khác họ thì có thể mã hóa bằng cách giữ nguyên họ, tên đệm (nếu có) và lấy chữ cái đầu tiên trong tên của họ; nếu trùng cả họ, tên đệm (nếu có) và chữ cái đầu tiên của tên thì có thể mã hóa bằng cách giữ nguyên họ, tên đệm (nếu có) và sử dụng chữ cái đầu tiên của tên kết hợp với số tự nhiên. Đối với những người tham gia tố tụng khác có cùng địa vị pháp lý (như: người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng...) thì có thế chia thành các nhóm có cùng địa vị pháp lý và sử dụng các chữ cái viết tắt địa vị pháp lý của họ, kết hợp với số tự nhiên để mã hóa.
Người tham gia tố tụng có quyền yêu cầu giữ bí mật
Về phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, lãnh đạo TANDTC yêu cầu các Tòa án thực hiện theo quy định của BLTTDS năm 2015, Luật TTHC năm 2015, BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 và hướng dẫn tại Điều 5 của Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP. Khi phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, Chủ tọa phiên tòa phải thông báo cho họ biết bản án, quyết định giải quyết vụ việc mà họ là người tham gia tố tụng thuộc diện được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án và quyền của họ được yêu cầu giữ bí mật một số thông tin theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu về giữ bí mật của người tham gia tố tụng có thể được thực hiện trước khi mở phiên tòa, phiên họp hoặc tại phiên tòa, phiên họp. Yêu cầu về giữ bí mật của người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa, phiên họp phải được làm bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do để Tòa án xem xét. Trường hợp người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa, phiên họp và Tòa án xét xử vắng mặt họ theo quy định của pháp luật mà người vắng mặt không có văn bản yêu cầu Tòa án giữ bí mật thông tin thì được xác định là họ không yêu cầu giữ bí mật thông tin. Việc phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng; yêu cầu của người tham gia tố tụng về công bố hoặc không công bố bản án, quyết định phải được ghi vào biên bản phiên tòa, phiên họp.
Trường hợp bản án, quyết định đã công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhưng thuộc trường hợp không được công bố hoặc được công bố không chính xác thì Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ việc có trách nhiệm xem xét, quyết định việc gỡ bỏ bản án, quyết định đó. Trường hợp có khiếu nại trong việc công bố bản án, quyết định giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, phá sản, áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại TAND là khiếu nại tư pháp và được thực hiện theo quy định tương ứng về giải quyết khiếu nại trong tố tụng quy định tại Chương XXXIII BLTTHS năm 2003, Chương XXXV BLTTHS năm 2015, Chương XXI Luật TTHC và Chương XLI BLTTDS năm 2015 hoặc áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết. Khiếu nại về việc công bố bản án, quyết định của Chủ tọa phiên tòa, phiên họp do Chánh án Tòa án nơi giải quyết vụ việc xem xét. Trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án đó thì có quyền khiếu nại lên Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án cấp trên một cấp là quyết định cuối cùng.
Lãnh đạo TANDTC yêu cầu Chánh án TAND và TAQS các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc TANDTC tổ chức quán triệt tới các Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trong cơ quan, đơn vị mình để triển khai ngay việc công bố bản án, quyết định trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Trong quá trình thực hiện nếu có vướng mắc hoặc đề xuất, kiến nghị thì phản ánh về TANDTC (thông qua Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học) để có hướng dẫn kịp thời.