Cần thống nhất quan điểm xác định công sức trong vụ án dân sự

Lý Khánh Hồng, Chánh tòa Tòa Dân sự TANDTC| 23/01/2015 10:29
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Về xem xét, tính công sức thế nào để bảo đảm công bằng, đúng quy định trong giải quyết các vụ án dân sự… là vấn đề khó khăn, phức tạp, trong thực tiễn có nhiều vướng mắc.

Từ thực tiễn xét xử, chúng tôi xin nêu một số quan điểm sau đây để cùng nhau thảo luận đi đến thống nhất quan điểm trong xử lý…

Thực tiễn cho thấy công sức có nhiều loại: 1) công sức tạo lập tài sản, phát triển tài sản; 2) công sức giữ gìn tài sản; 3) công sức bảo quản tài sản; 4) công sức tôn tạo tài sản; 5) công sức làm tăng giá trị của tài sản; 6) công sức chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản… Muốn tính công sức thì trước hết phải xem xét có công sức hay không. Đặc biệt cần phải phân biệt giữa công sức và các chi phí. Chi phí là khoản tiền đã bỏ ra (để nuôi dưỡng người để lại di sản như: Tiền thức ăn, tiền thuốc uống, tiền thuê người giúp việc…; để sửa lại nhà như: Trát lại tường, lăn lại sơn, lát sân nhà…). Các khoản tiền đã chi phí đều tính được và ai có yêu cầu thì phải có nghĩa vụ chứng minh (có thể bằng hóa đơn mua hàng, xác nhận của người bán hàng, người vận chuyển, người làm công…). Còn công sức là sức lực, là thời gian… mà con người bỏ ra để ra nuôi dưỡng người để lại di sản, để giữ gìn, bảo quản, duy trì tài sản nên tài sản không bị hư hỏng, mất mát hoặc để làm tăng giá trị tài sản bằng việc tôn tạo, tu bổ tài sản. Công sức không thể xác định được thông qua các hóa đơn…

Thực tế cho thấy có thể phân loại có ba dạng công sức trong các vụ án dân sự: Công sức trong các vụ án hôn nhân và gia đình; công sức trong các vụ án thừa kế và công sức trong các vụ án khác (đòi tài sản, đòi nhà đất cho thuê, đòi lại nhà đất cho ở nhờ…).

Cần thống nhất quan điểm xác định công sức trong vụ án dân sự

Ông Lý Khánh Hồng trình bày tham luận tại Hội nghị triển khai công tác TAND năm 2015

Luật Hôn nhân và gia đình (LHNGĐ) có những điều luật quy định về việc tính công sức khi phân chia tài sản chung của vợ chồng. Đối với việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, thì tại điểm a khoản 2 Điều 95 LHNGĐ năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập’’.

 Đối với việc chia tài sản khi hủy kết hôn trái pháp luật, thì tại khoản 3 Điều 17 LHNGĐ năm 2000 quy định: “Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ’’.

Khoản 2 Điều 16 LHNGĐ năm 2014 quy định về giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn: “Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập”.

Khoản 2 Điều 59 LHNGĐ năm 2014 quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau: “Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập…”.

Khoản 1 Điều 61 LHNGĐ năm 2014 quy định về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình: “Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết”.

Như vậy, đối với việc chia tài sản khi hủy kết hôn trái pháp luật hay chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn thì đều có xem xét công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản. Về nguyên tắc thì trong thời gian chung sống, nếu không có chứng cứ gì khác thì về nguyên tắc tài sản phát triển đều được chia đôi (công việc nội trợ và công việc khác liên quan đến đời sống chung cũng được coi như lao động có thu nhập). Tuy nhiên khi phân chia cũng cần xem xét đến người đã tạo ra nguồn tiền để phát triển tài sản, từ đó phân chia cho phù hợp.

Đối với các vụ án tranh chấp về thừa kế tài sản thì trước khi phân chia tài sản thừa kế, Tòa án thường xem xét để trích cho người có công sức trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng người để lại di sản (ngoài phần chi phí cho việc nuôi dưỡng), công sức bảo quản di sản, công sức giữ gìn tài sản… Điều 640 BLDS quy định về quyền của người quản lý di sản trong đó có quyền được hưởng thù lao theo thoả thuận với những người thừa kế.

 Đối với các vụ án đòi nhà đất cho ở nhờ thì nếu chấp nhận yêu cầu của chủ nhà thì ngoài việc chủ nhà phải thanh toán cho người ở nhờ tiền chi phí sửa sang nhà (nếu có việc sửa nhà và người cho ở nhờ không phản đối và hợp đồng cho ở nhờ không quy định) thì chủ nhà còn phải trả cho người ở nhờ khoản tiền công sức bảo quản, duy trì nhà ở (nếu có).

Trong các vụ án đòi tài sản khác thì nếu người quản lý tài sản có công sức thì chủ sở hữu của tài sản cũng phải có trách nhiệm thanh toán cho người đang quản lý tài sản.

Vậy, việc tính công sức dựa trên các tiêu chí nào? Trường hợp nào thì tính công sức? Trường hợp nào thì không tính công sức? Trên thực tế còn có những ý kiến khác nhau và chưa có sự hướng dẫn, nhưng tựu chung lại thì có các loại ý kiến khác nhau về việc tính công sức sau đây:

Quan điểm thứ nhất: Đối với trường hợp người trực tiếp quản lý tài sản đang có tranh chấp đã sử dụng, khai thác lợi ích, hoa lợi và có thu nhập từ việc quản lý, sử dụng tài sản đó thì không nên tính công sức gìn giữ, quản lý tài sản cho họ vì họ đã được hưởng lợi từ tài sản mà họ được quản lý (như trong trường hợp người mượn tài sản, người ở nhờ nhà đất, thì người mượn tài sản, người ở nhờ không những được sử dụng nhà không phải trả tiền thuê tài sản mà còn được sử dụng tài sản đó để hưởng hoa lợi, lợi tức, điển hình nhất là những trường hợp mượn và ở nhờ nhà, đất thì người mượn, người ở nhờ được sử dụng nhà, đất đó để kinh doanh… nên nếu tính công sức duy trì cho họ thì họ sẽ được hưởng lợi nhiều lần).

Quan điểm thứ hai: Đối với trường hợp người trực tiếp quản lý tài sản có tranh chấp không khai thác lợi ích của tài sản thì dù có thoả thuận hay không có thoả thuận về tính công sức thì đều phải tính giá trị công sức cho họ “tương xứng” với công sức mà họ đã bỏ ra.

Quan điểm thứ ba: Trong mọi trường hợp đều phải tính công sức cho người trực tiếp quản lý tài sản có tranh chấp.

Còn về tính công sức như thế nào (định lượng công sức) thì cũng có ý kiến khác nhau: Ý kiến thứ nhất cho rằng việc tính công sức phụ thuộc vào giá trị tài sản tranh chấp (giá trị tài sản tranh chấp càng cao thì số tiền tính công sức càng lớn). Những người theo ý kiến này định lượng công sức theo % giá trị của tài sản; Ý kiến thứ hai cho rằng tính công sức không phụ thuộc vào giá trị tài sản. Ý kiến thứ ba cho rằng việc tính công sức phải căn cứ vào việc nếu không có công sức của người quản lý, giữ gìn tài sản… thì tài sản đó có tồn tại hay không (ví dụ xe ôtô mà không bảo quản có mái che, không bảo dưỡng định kỳ… thì chỉ một thời gian giá trị sử dụng sẽ giảm nhiều).

Từ thực tiễn công tác giám đốc thẩm, Tòa Dân sự cho rằng việc tính công sức giữ gìn, bảo quản, duy trì, cải tạo… tài sản dựa trên các tiêu chí sau đây:

1- Công sức giữ gìn, bảo quản, duy trì, cải tạo... tài sản được xác định trong những trường hợp sau đây: Nếu không có sự quản lý (bảo quản, giữ gìn…) thì tài sản có thể sẽ không còn hoặc bị giảm giá trị (do bị mất mát, hư hỏng theo tự nhiên hoặc bị chủ thể khác xác lập quyền sở hữu, sử dụng một phần hoặc toàn bộ theo quy định của pháp luật) và do có sự quản lý nên tài sản vẫn còn và giữ được giá trị (một phần hoặc toàn bộ) hoặc làm tăng giá trị của tài sản (giá trị tài sản có thể được tăng theo tự nhiên, do trượt giá hoặc do người quản lý có công cải tạo làm giá trị tài sản tăng giá trị).

Trong trường hợp người quản lý tài sản được hưởng hoa lợi, lợi tức… từ việc quản lý tài sản thì phải xem xét thu nhập đó giá trị bao nhiêu? Có tương xứng với công sức mà người quản lý tài sản bỏ ra hay không? Nếu thu nhập từ việc quản lý tài sản của người quản lý tài sản tương xứng hoặc cao hơn công sức mà người đó đã bỏ ra thì vấn đề công sức không đặt ra; còn nếu thu nhập từ tài sản của người quản lý tài sản thấp hơn công sức mà người quản lý tài sản đã bỏ ra thì nên xem xét cho họ.

2- Các tiêu chí để tính công sức: Một là, trước hết phải xem xét về tầm quan trọng của việc quản lý tài sản đó và quan hệ liên quan đến việc quản lý tài sản. Nếu như người thừa kế (do trước đó sống chung với người để lại di sản), người ở nhờ quản lý tài sản… thì tầm quan trọng trong việc quản lý tài sản sẽ khác với trường hợp người khác quản lý giúp tài sản, ví dụ: Người quản lý di sản là người thừa kế quản lý ôtô do sống chung với người để lại thừa kế sẽ có công ít hơn trong trường hợp người quản lý tài sản do người khác để lại ôtô do phải bỏ chạy do thiên tai… Phải xem xét nếu không có công sức của người quản lý, giữ gìn tài sản… thì tài sản đó có tồn tại hay không (nếu không có người đang quản lý tài sản thì có người khác quản lý tài sản không? Nếu không có người quản lý tài sản thì tài sản đó có bị thu hồi hay không? Có bị giảm giá trị hay không?...).

Hai là: Giá trị của tài sản cũng là một tiêu chí để xem xét công sức cho người quản lý tài sản: Tài sản càng có giá trị cao thì trách nhiệm của người quản lý tài sản càng lớn. Công sức quản lý tài sản có giá trị cao phải cao hơn công sức quản lý tài sản có giá trị thấp (nếu cùng phải chi phí thời gian, sức lực…).

Ba là: Quản lý tài sản yêu cầu trình độ chuyên môn cao, chi phí thời gian nhiều… phải được xem xét công sức cao hơn quản lý tài sản không yêu cầu trình độ chuyên môn hoặc tốn ít thời gian…

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự thì một số Tòa án tính công sức cho người Việt Nam ở trong nước mua giúp nhà đất và quản lý nhà đất cho người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài bằng ½ số tiền chênh lệch từ việc chuyển nhượng nhà đất; tính công sức từ ½ đến 1 xuất thừa kế theo luật (tùy từng vụ, việc) đối với người quản lý di sản…cũng là phù hợp với thực tế. 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Cần thống nhất quan điểm xác định công sức trong vụ án dân sự