Hãng phim Truyện Việt Nam: Từ câu chuyện cổ phần hóa đến niềm tin trong sáng tạo nghệ thuật

TS.NSƯT Nguyễn Thu Hà| 26/09/2017 16:06
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Từ những ngày đầu tiên gian khó, với hai bàn tay trắng, hơn 400 bộ phim được làm bằng máu, bằng nước mắt, bằng sự hy sinh đã ra đời. Đó là những giá trị về văn hóa, lịch sử đất nước.

Niềm tin vào giá trị lao động sáng tạo nghệ thuật

Theo sắc lệnh số 147/SL ngày 15/3/1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thành lập Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam và ngày này đã trở thành ngày khai sinh chính thức của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam, với bốn nhiệm vụ được trao. Đó là Tuyên truyền chính sách, chủ trương của Chính phủ; Nêu cao thành tích, những gương đấu tranh anh dũng của quân và dân Việt Nam; Giới thiệu đời sống và thành tích đấu tranh, kiến thiết của nhân dân các nước bạn; Giáo dục văn hóa và chính trị cho nhân dân.

Hãng phim Truyện Việt Nam: Từ câu chuyện cổ phần hóa đến niềm tin trong sáng tạo nghệ thuật

Trụ sở Hãng phim truyện Việt Nam ở số 4 Thụy Khuê, Hà Nội

Làm theo lời Bác, các thế hệ nghệ sĩ Điện ảnh đã đồng tâm chung sức xây dựng nên nền Điện ảnh Cách mạng Việt Nam cho đến ngày hôm nay. 64 năm kể từ ngày Bác Hồ ký Sắc lệnh lịch sử, đồng thời cũng là 63 năm Điện ảnh Cách mạng Việt Nam, sau này là Hãng phim truyện Việt Nam định danh trên mảnh đất số 4 Thụy Khuê từ ngay những ngày đầu tiếp quản Thủ đô (năm 1954).

Từ những ngày đầu tiên gian khó, với hai bàn tay trắng, hơn 400 bộ phim đã được làm, bằng máu, bằng nước mắt, bằng sự hy sinh, là những giá trị về văn hóa, lịch sử đất nước. Đó là kết quả lao động nghệ thuật xuất phát từ niềm tin, đã được gìn giữ bởi những thế hệ đi trước và truyền lại cho thế hệ những nghệ sĩ sau này.

Vì sao lại là niềm tin, tôi luôn nhớ câu chuyện mà cha tôi, Đạo diễn Điện ảnh, NSND Hải Ninh đã kể. “Từ những ý tưởng mỏng manh ban đầu, ông và nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ đã tìm hiểu và xây dựng kịch bản trong khoảng 2 năm. Trong thời gian đó, hai ông đã đạp xe đạp từ Hà Nội vào Quảng Bình, Quảng Trị, tới tận vĩ tuyến 17, giới tuyến chia cắt hai miền ruột thịt của đất nước để thu thập tài liệu thưc tế, tìm hiểu đời sống của những con người kiên cường nơi tuyến đầu. Hai ông đạp xe ròng rã, vừa đi vừa tránh bom đạn, vừa bàn bạc xây dựng kịch bản, đã nhiều lần hút chết dưới làn mưa bom, bão đạn. Nữ diễn viên chính của phim, NSND Trà Giagn cũng đã tới mảnh đất này, cùng ăn ở, cùng lao động với cô Diệu, là nguyên mẫu của nhân vật Dịu trong phim. Từ những chuyến đi gian khổ đó, năm 1972, bộ phim Vĩ tuyến 17, Ngày và Đêm ra đời”.

Hãng phim Truyện Việt Nam: Từ câu chuyện cổ phần hóa đến niềm tin trong sáng tạo nghệ thuật

Phim "Vĩ tuyến 17 ngày và đêm" của NSND, đạo diễn Hải Ninh

Trong những năm tháng đó, đời sống ở miền Bắc vô cùng gian nan vất vả. Tôi không nghĩ Lãnh đạo Xưởng phim truyện Hà Nội (tên gọi lúc bấy giờ) cho rằng hai ông vắng mặt tại cơ quan, không làm việc, sáng tác kịch bản chỉ cần trang giấy và ngòi bút, cứ lên cơ quan mà sáng tác cho đủ ngày công.  Theo tôi hiểu, kỷ luật thời chiến là vô cùng nghiêm ngặt, lương thực, thực phẩm phải phân phối theo chế độ tem phiếu, nhưng hai ông đã tạo những điều kiện tốt nhất có thể để đi tìm hiểu thực tế, dù bộ phim mới chỉ nằm trong đầu của các tác giả.

Tại sao những nghệ sĩ lúc đó đã làm được những điều mà ngày nay, chúng ta đôi khi không thể hiểu hết? Theo suy nghĩ của riêng tôi, tất cả nhờ vào niềm tin. Người nghệ sĩ tin vào công việc mình đang làm, tin vào những người lãnh đạo, những nhà quản lý lúc đó, tin người nghệ sĩ, vào nhân phẩm và tài năng của những người lao động nghệ thuật. Sâu xa hơn là lòng tin của nghệ sĩ vào Đảng và Chính phủ, vào công cuộc chính nghĩa của toàn dân tộc lúc bấy giờ. Và hơn ai hết, Đảng và Nhà nước cũng đặt trọn niềm tin vào những người nghệ sĩ, luôn sẵn sàng hy sinh xương máu để có những thước phim chân thực đi cùng năm tháng với lịch sử của dân tộc. Những con người thời đó đã làm theo lời Bác với tất cả tình yêu quê hương đất nước. Theo tôi hiểu, niềm tin đã được trao gửi trọn vẹn, được nâng niu giữ gìn, là niềm tự  hào của những nghệ sĩ.

Còn ngày hôm nay, cũng chính trên mảnh đất vàng số 4 Thụy Khuê, Ban lãnh đạo mới của Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển phim truyện Việt Nam có nhận được lòng tin đó từ phía người lao động nghệ thuật hay không? Ban lãnh đạo mới có đủ tâm huyết và trách nhiệm để đón nhận lòng tin từ đội ngũ những người làm điện ảnh hay không? Hẳn mỗi chúng ta đều có câu trả lời cho mình sau những ngày ồn ào vừa qua.

Câu chuyện giá trị thương hiệu là 0 đồng thể hiện sự từ chối những giá trị văn hóa, giá trị lịch sử đã đồng hành cùng công cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng đất nước. Đảng và Nhà nước đã ghi nhận những giá trị nghệ thuật đó bằng những giải thưởng cao quý, đi vào tình cảm yêu quý của nhiều thế hệ khán giả. Niềm tin bị tổn thương, mất mát chính bởi sự khước từ những giá trị về văn hóa. Dẫu cho có thể định giá lại thương hiệu, nhưng tôi không nghĩ những hy sinh, lòng tự hào, niềm tin, các giá trị lịch sử…lại có thể có một mức giá cụ thể, và nếu có, nó xứng đáng là bao nhiêu tiền? Ai sẽ định giá những giá trị văn hóa lịch sử đó?

Số 4 Thụy Khuê xứng đáng hơn rất nhiều những gì nó đang có, đó là một địa chỉ văn hóa, lịch sử. Nơi đây đã đón Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt… đến thăm các đoàn làm phim, động viên đội ngũ những người làm điện ảnh. Giám đốc đầu tiên nơi đây là NSND Phạm Văn Khoa, là một trong những người được dựng Lễ đài Độc lập tại quảng trường Ba Đình để Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử.

Hãng phim Truyện Việt Nam: Từ câu chuyện cổ phần hóa đến niềm tin trong sáng tạo nghệ thuật

Cô Nguyễn Thu Hà tại buổi gặp gỡ báo chí hôm 21/9

Để số 4 Thụy Khuê như ngày hôm nay với dãy xưởng cũ nát, lỗi đó không hoàn toàn do những nghệ sĩ. Đây là câu chuyện dài, đã được trình bày rất nhiều trong thời gian qua, nhưng có lẽ vẫn chưa là đủ.

Cái mất ở đây không hẳn là mảnh đất vàng, không chỉ là thất thoát hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách Nhà nước mà ai cũng dễ dàng nhìn thấy. Cái mất ở đây chính là niềm tin đã bị đem ra bán tháo, các giá trị lịch sử bị đặt lên bàn cân đồng nát.

Tôi tin các nghệ sĩ điện ảnh tại Hãng phim truyện Việt Nam hôm nay đấu tranh không chỉ vì đồng lương hàng tháng đơn thuần. Họ đủ lòng tự trọng bươn chải cuộc sống để nuôi dưỡng tình yêu điện ảnh. Bởi từ lâu lắm rồi, đồng lương cơ bản của Hãng phim luôn nằm ở mức đáy của các đơn vị Nhà nước. Điều những người làm điện ảnh cần không hẳn là vì số tiền hàng tháng được nhận.

Câu hỏi còn bỏ ngỏ !

Là một giảng viên của một trường đào tạo, hầu hết các thế hệ nghệ sĩ, trường Đại học Sân khấu- Điện ảnh Hà Nội, tôi thấy những gì đang diễn ra tại Hãng phim truyện Việt Nam đã ảnh hưởng trực tiếp tới những sinh viên đang theo học của mình.

Trong chương trình đào tạo các ngành Biên kịch, Đạo diễn, quay phim, Diễn viên, Thiết kế mỹ thuật, Lý luận phê bình…, môn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam luôn được học từ năm thứ nhất. Trong giáo trình, những tác phẩm điện ảnh kinh điển, được coi là chuẩn mực của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam được thầy cô giảng dạy với tất cả sự trân trọng.

Bản thân tôi từng nhiều lần đưa sinh viên tới số 4 Thụy Khuê, giới thệu những tấm ảnh mà nghệ sĩ Phi Nga đã mặc trong phim Chung một dòng sông, bộ phim đầu tiên của Điện ảnh Cách mạng Việt Nam. Thời chiến tranh, vải hoa là quá hiếm hoi, vẫn còn vẹn nguyên những tấm áo mà NSND Trà Giang đã mặc trong phim Chị Tư Hậu được họa sĩ dùng sơn dầu vẽ hoa từ tấm vải trắng trơn. Toàn bộ trang phục của bộ đội trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; các chiến lợi phẩm gồm rất nhiều đạo vụ và trang phục đã được Ban lãnh đạo Hãng phim các thời kỳ xin về để phục vụ cho những bộ phim lịch sử. Đã không ít lần, nhiều Bảo tàng nước ngoài tới xin trao đổi những hiện vật gốc quý giá đang nằm trong kho của Hãng.

Chắc ít người biết rằng, phục trang của bộ phim Vợ chồng A Phủ (1961) được các họa sĩ của trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp thực hiện theo bản vẽ của Họa sĩ, NSƯT Vi Ngọc Linh một cách tỉ mỉ, chân thực. Trên màn ảnh đen trắng, các khán giả tưởng đó là những bộ trang phục dân tộc thật, khó có thể phân biệt.

Hầu hết những bộ trang phục, nhiều đạo cụ quý gía này đã được nâng niu, giữ gìn trong suốt hơn nửa thế kỷ qua trong kho phục trang, đạo cụ tại số 4 Thụy Khuê. Khi hướng dẫn cho sinh viên, tôi cũng thường so sánh để các bạn trẻ thấy được các thế hệ nghệ sĩ đi trước đã làm nên những bộ phim kinh điển trong muôn vàn khó khăn như thế nào.

Vậy những nhà làm phim tương lai thấy được bài học gì khi những đạo cụ mà thực chất là những hiện vật gốc của từng thời kỳ lịch sử được chính những nghệ sĩ làm phim mua lại từ gánh đồng nát?

Một vị nguyên là Lãnh đạo cao cấp trong quân đội từng nói với tôi trong một lần đi làm phim chiến tranh cách mạng: “Thời đó, giải phóng xong là cho chuyển ra xưởng phim gần chục xe phục trang, đạo cụ mới tinh còn trong kho để phục vụ làm phim, gắng giữ gìn mà dùng, giờ không còn nữa đâu con”.

Biết bao những tấm lòng quan tâm, trân trọng với điện ảnh như thế…

Nếu những kịch bản gốc còn nguyên bút tích của những người làm phim, các bản vẽ thiết kế mỹ thuật, những đạo cụ, trang phục của một thời chưa xa ấy cản trở sự phát triển của Công ty Cổ phần đầu tư và phát triển phim truyện Việt Nam, tôi nghĩ nên bàn giao lại cho các Bảo tàng, cho nhà trường làm tư liệu tham khảo, nghiên cứu và giảng dạy, cũng là một cách lưu giữ quá khứ một cách trân trọng và hiệu quả.

Đội ngũ giảng dạy của nhà trường đã luôn coi các NSND, NSƯT của Hãng phim truyện Việt Nam là những giảng viên trụ cột tham gia công tác đào tạo. Nhiều nghệ sĩ thành danh từ Hãng đã là những giảng viên chính thức, là Trưởng các khoa Điện ảnh, Truyền hình như NSND Lý Thái Dũng, NSƯT Nguyễn Hữu Mười. Hình ảnh những giảng viên/nghệ sĩ với những bộ phim thành công là những bài học thực tiễn thuyết phục nhất trong công tác đào tạo và tuyển sinh của nhà trường. Còn bây giờ, các thầy sẽ nói gì với các em sinh viên của mình khi Hãng phim đang ngày một đi xuống như bây giờ?.

Là giảng viên/nghệ sĩ, chúng tôi không khỏi xót xa trước tình hình của số 4 Thụy Khuê bây giờ. Bởi nơi đó đã từng có một môi trường nghệ thuật chuyên nghiệp, đắm say. Bởi được trở thành một nhà biên kịch, đạo diễn, một quay phim, một họa sĩ, một kỹ thuật viên… của Hãng phim đầu ngành là niềm tự hào, là sự xác nhận đầy tự hào về trình độ chuyên môn, là sự tiếp nối các thế hệ nghệ sĩ cha anh đi trước. Nhưng giờ đây, sinh viên sẽ không còn giấc mơ như thế nữa, giấc mơ tuổi học trò cũng sẽ phải thay đổi hoặc không còn…

Cuộc sống sẽ luôn biến đổi để tồn tại và phát triển, có những sự thích nghi, những cuộc lột xác để trưởng thành, để cứng cáp hơn, có những bài học, những sự trả giá để vững vàng hơn. Nhưng bài học về niềm tin của các thế hệ những người làm điện ảnh tại số 4 Thụy Khuê ngày hôm nay là một bài học sinh động, quá đắt giá. Tôi chỉ mong những người làm điện ảnh chân chính sẽ tìm ra được con đường cho mình, góp phần vào công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước trong thời đại ngày nay.

Trong việc cổ phần hóa Hãng Phim truyện Việt Nam, ngoài chuyện lương thấp và thiếu định hướng, các nghệ sĩ còn bất bình với ban lãnh đạo mới vì coi thường các tác phẩm và kịch bản của hãng - vốn là di sản có giá trị văn hóa. Tại buổi làm việc với Phó thủ tướng Vũ Đức Đam ngày 21/9, đại diện Hội Điện ảnh cho rằng một trong những vấn đề bức xúc nhất của các nghệ sĩ là việc xác định giá trị thương hiệu bằng 0.

"Chúng tôi cảm thấy xót xa bởi định giá như vậy là phủ nhận toàn bộ những giá trị nghệ thuật của điện ảnh Việt Nam trong cách mạng. Giá trị thương hiệu bằng 0 cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận giá trị của hơn 400 bộ phim và những người làm ra tác phẩm đó”, đại diện Hội điện ảnh Việt Nam phát biểu.

 

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Hãng phim Truyện Việt Nam: Từ câu chuyện cổ phần hóa đến niềm tin trong sáng tạo nghệ thuật