Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, TAND tỉnh Đắk Lắk có quyết định buộc thi hành án nhưng UBND TP. Buôn Ma Thuột vẫn chậm thi hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án như các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh Đắk Lắk.
Như Báo Công lý đã thông tin, ông Phan Văn Phúc (SN 1968, trú Thôn 1, xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) có đất thửa 181, tờ Bản đồ số 17, có diện tích 1.214,4m2. Trước năm 1990 do gia đình ông Phan Văn Phúc từ Bắc vào khai hoang, phát cỏ và tự trồng cây, xây dựng nhà, vị trí tiếp giáp với Nông Trường Cà Phê Việt Đức (nay là ông ty TNHH MTV Cà Phê Việt Thắng) ở ổn định, không tranh chấp với ai, kể cả công ty cho đến nay.
Để chứng minh cho ý kiến của mình, ông Phan Văn Phúc đã cung cấp các tài liệu cho Tòa án Thông báo nộp thuế lần 1 năm 2013 và các biên lai thu thuế nhà, đất; biên lai thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp thể hiện việc ông Phúc thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty Cà phê Việt Thắng trình bày, nguồn gốc là thửa đất số 1161, tại đội 1 thuộc Công ty Cà Phê Việt Thắng có diện tích 1ha, có đường lô (đường giao thông nội đồng) được giao khoán cho bà Phan Thị Hạnh là công nhân đội 1 nhận khoán. Sau đó, bà Hạnh chuyển nhượng cho 3 người, trong đó có ông Phan Văn Phúc nhận 0,067ha. Ngày 20/4/2007, ông Phúc có làm đơn giao nhận khoán nêu trên, hồ sơ được UBND xã xác nhận ngày 10/10/2007. Tuy nhiên, giám đốc công ty chưa ký hồ sơ hợp đồng giao khoán với ông Phúc. Như vậy, Công ty Cà Phê Việt Thắng xác định là Công ty chưa ký kết hợp đồng giao khoán nào với ông Phúc.
Xét danh sách các hộ nhận khoán tại Khu Mô tại đội 1, Công ty Cà Phê Việt Thắng đến thời điểm thu hồi đất và các văn bản trả lời đơn thư của UBND thành phố đối với ông Phan Văn Phúc thể hiện hộ ông Phan Văn Phúc nhận khoán là 0,067ha tại thửa 1161; các văn bản là bảng tính chi tiết bồi thường, hỗ trợ nhà nước khi thu hồi đất và biên bản xác minh nguồn gốc đất ngày 20/5/2021 thì lại xác định diện tích giao khoán của hộ ông Phan Văn Phúc là 1214m2 là hoàn toàn mâu thuẫn về diện tích có trong các tài liệu, chứng cứ mà UBND thành phố việc xác định diện tích đất giao khoán giữa ông Phúc với Công ty Cà Phê Việt Thắng.
Như vậy, về nguồn gốc đất bị thu hồi của ông Phan Văn Phúc, trong Quyết Định số 6870/QĐ - UBND, ngày 28/9/2021 của UBND TP. Buôn Ma Thuột và bảng tính chi tiết bồi thường, hỗ trợ nhà nước khi thu hồi đất kèm theo xác định, ông Phan Văn Phúc nhận hợp đồng giao khoán sản xuất trồng cây cà phê với Công ty Cà Phê Việt Thắng với diện tích 1214m2 đất bị thu hồi là không có cơ sở để chấp nhận.
Theo bảng tính chi tiết bồi thường kèm theo quyết định, UBND TP. Buôn Ma Thuột đã căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai 2013 để không bồi thường về đất cho ông Phan Văn Phúc. Điều này ông Phúc cho rằng là không đúng bởi lẽ: Hiện chưa có tài liệu chứng cứ nào thể hiện diện tích đất bị thu hồi của ông Phan Văn Phúc là diện tích giao khoán, trong khi đó ông Phúc đã làm nhà và ở ổn định từ năm 1990 cho đến thời điểm bị thu hồi đất, quá trình sử dụng đất không xảy ra tranh chấp với ai. Đồng thời, Công ty Cà Phê Việt Thắng biết nhưng không có ý kiến gì. Mặt khác, Chi cục Thuế TP. Buôn Ma Thuột đã ban hành thông báo nộp thuế lần 1 năm 2013 đối với hộ ông Phan Văn Phúc và ông Phúc đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình với Nhà nước thể hiện tại các biên lai.
Căn cứ Khoản 1 Điều 75 của Luật Đất đai năm 2023 thì ông Phan Văn Phúc có đủ điều kiện được bồi thường về đất. Do vậy, HĐXX TAND tỉnh Đắk Lắk và TANDCC tại Đà Nẵng đều tuyên Buộc UBND TP. Buôn Ma Thuột ban hành lại phương án phê duyệt bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng Công trình về mục bồi thường về đất đối với ông Phan Văn Phúc.
Sau khi Bản án phúc thẩm số 246/2023/HC-PT ngày 31/7/2023 của TANDCC tại Đà Nẵng có hiệu lực pháp luật. Ông Phan Văn Phúc làm đơn yêu cầu ra quyết định buộc thi hành bản án. Trên cơ sở đó TAND tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định số 31/2023/QĐ-CA ngày 13/11/2023 buộc UBND TP. Buôn Ma Thuột thi hành bản án có hiệu lực trên.
Tuy vậy, UBND TP. Buôn Ma Thuột vẫn chậm thi hành nên ông Phúc và người đại diện của ông nhiều lần gửi đơn đề nghị, đơn tố cáo đến các cấp. UBND tỉnh Đắk Lắk đã có rất nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện như: Văn bản số 8276/UBND-NC ngày 25/9/2023, 9486/UBND-NC ngày 30/10/2023 do Phó Chủ tịch Võ Văn Cảnh ký; Văn bản số 10820/UBND-NNMT ngày 07/12/2023 do Phó Chủ tịch Nguyễn Thiên Văn ký; Văn bản số 1102/UBND-NC ngày 06/2/2023, 2584/UBND-NC ngày 29/3/2024 do Chủ tịch Phạm Ngọc Nghị ký; Văn bản số 4095/UBND-NC ngày 14/5/2024 do Phó Chủ tịch Võ Văn Cảnh ký.
Trong tất cả các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh đều thể hiện nội dung đề nghị UBND TP. Buôn Ma Thuột tổ chức thi hành Bản án phúc thẩm số 246.2023/HC-PT của TANDCC tại Đà Nẵng và Quyết định số 31/2023/QĐ-CA của Chánh án TAND tỉnh Đắk Lắk.
Thay vì thực thi bản án, ngày 24/5/2024 UBND TP. Buôn Ma Thuột lại ra Quyết định số 2971/QĐ-UBND về việc phê duyệt lại phương án bồi thường đối với ông Phan Văn Phúc. Theo đó, UBND TP. Buôn Ma Thuột cho rằng nhận định của Tòa án là chưa chính xác nên bồi thường về đất có giá trị 0 đồng.
Không chấp nhận với quyết định của UBND TP. Buôn Ma Thuột, ông Phúc tiếp tục gửi đơn đến các cấp. Ngày 23/7/2024 ông Phạm Ngọc Nghị, Chủ tịch UBND tỉnh Đắk Lắk có Văn bản số 6643/UBND-NC chỉ đạo Chủ tịch UBND TP. Buôn Ma Thuột nghiêm túc thực hiện Bản án có hiệu lực thi hành.
Mới đây nhất, trong Thông báo kết luận số 143/TB-UBND ngày 16/9/2024 của ông Nguyễn Thiên Văn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh cũng yêu cầu UBND thành phố nghiêm túc triển khai thực hiện bản án. “Hiện nay UBND TP. Buôn Ma Thuột đang đề nghị cơ quan thẩm quyền xem xét theo thủ tục Giám đốc thẩm bản án nêu trên, tuy nhiên không có cơ sở tạm dừng bản án có hiệu lực pháp luật và công dân vẫn có đơn gửi đến nhiều cấp, nhiều ngành trong tỉnh; đề nghị thực hiện Bản án phúc thẩm nêu trên; UBND TP. Buôn Ma Thuột chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chậm trễ nếu ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp, chính đáng của công dân”, văn bản nêu rõ.