Vụ án tranh chấp HĐ chuyển nhượng QSDĐ, HĐ thuê quyền sử dụng đất, HĐ mượn tài sản, HĐ đặt cọc và bồi thường thiệt hại giữa nguyên đơn là ông Đặng Hùng (TP.HCM) với bị đơn là ông Chung Quang Kính (Đồng Tháp) đã được đưa ra xét xử sơ thẩm…
Nhưng xem ra, có dấu hiệu dân sự hóa vụ án hình sự.
Bán cái mình không có
Ngày 30/5/2007, ông Đặng Hùng (cư trú tại 67 đường Huỳnh Thiện Lộc, P. Hòa Thạnh, quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh) thỏa thuận với ông Chung Quang Kính (ấp Đông Mỹ, xã Mỹ Hội, Cao Lãnh, Đồng Tháp) là ông Kính chuyển nhượng cho ông Hùng 5 công đất ruộng với giá 240 chỉ vàng 9999. Do ông Kính nói giấy tờ về quyền sử dụng đất của ông Kính do UBND xã Bình Hàng Trung quản lý, nên thay vì thanh toán, ông Hùng đặt cọc cho ông Kính 50 triệu đồng để bảo đảm việc chuyển nhượng. Khi nào ông Kính có đủ giấy tờ về quyền sử dụng đất và làm thủ tục chuyển nhượng thì ông Hùng sẽ trả cho ông Kính đủ số vàng như đã thỏa thuận. Hai bên có làm giấy viết tay về thỏa thuận này.
Sau khi nhận 50 triệu đồng ông Kính giao đất cho ông Hùng đào ao để sản xuất cá giống. Ông Hùng đã tiến hành xây dựng nhà trông coi, đào ao nuôi cá, lắp điện thoại, mua sắm trang thiết bị máy móc để phục vụ sản xuất. Khi ông Hùng đầu tư xong thì ông Kính qua đòi đưa tiếp 15 cây vàng nhưng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông Hùng không đồng ý, mà yêu cầu ông Kính thực hiện đúng giao kèo.
Nuôi tôm càng xanh ở Cao Lãnh - Đồng Tháp
Đến ngày 18/7/2011 ông Kính gặp ông Hùng với mục đích thực hiện thỏa thuận ngày 30/5/2007, nhưng ông Hùng thấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải của ông Kính (đứng tên bà Nguyễn Thị Muội) nên không đồng ý thực hiện tiếp thỏa thuận đã ký. Ngày 12/9/2011 ông Hùng tố cáo ông Kính về việc lừa đảo, chiếm đoạt tài sản nhưng không được Công an huyện Cao Lãnh chấp thuận.
Ông Hùng tố cáo là có cơ sở
Ông Hùng tố cáo ông Chung Quang Kính về hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của ông Hùng có căn cứ hay không?
Trước hết, ông Kính biết rõ 5 công đất “chuyển nhượng” cho ông Hùng có nguồn gốc của ông bà Nguyễn Văn Khởi, Đinh Thị Thê, chú thím của bà Nguyễn Thị Muội, nhưng khi giao dịch lại nói mù mờ rằng giấy tờ về quyền sử dụng đất của ông do UBND xã Bình Hàng Trung đang quản lý, để ông Hùng tin là ông Kính có đất thật. Đó là bằng chứng thứ nhất về sự gian dối.
Thứ hai, trong Công văn số 452/PTNMT-HC ngày 19/8/2010 của Phòng Tài nguyên – Môi trường huyện Cao Lãnh trả lời Ls Giã Hoàng Nhựt, Công ty Luật hợp danh Phúc Đức có nội dung: “Qua đối chiếu kiểm tra hệ thống bản đồ, lưới tọa độ đang lưu trữ tại đơn vị, hiện nay ông Chung Quang Kính không có đứng tên quyền sử dụng đất tại xã Bình Hàng Trung. Phần đất thửa 22 có diện tích 3.552m2 lại đất lúa và thửa đất 24 diện tích 3972m2 loại đất lúa tờ bản đồ số 04 xã Bình Hàng Trung đã được Ủy ban nhân dân huyện Cao Lãnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 6/5/2010 cho hộ bà Nguyễn Thị Muội cư trú ấp Đông Mỹ, xã Mỹ Hội, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp”.
Thứ ba, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB547174 ngày 6 tháng 5 năm 2010 ghi: Người sử dụng đất: Hộ bà Nguyễn Thị Muội. Thửa đất tờ bản đồ số 4 diện tích 3552m2…
Hai văn bản trích dẫn trên đây đã chứng minh rõ ông Chung Quang Kính không phải là người sử dụng đất hợp pháp đối với các thửa đất mà ông Kính thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Hùng.
Khi ông Hùng phát hiện ông Kính không phải là người sử dụng đất hợp pháp đã yêu cầu ông Kính trả lại tiền đặt cọc và thực hiện hợp đồng đặt cọc là ông Kính phải chuyển trả tiền đặt cọc và chịu tiền phạt cọc nhưng ông Kính không trả và chiếm đoạt số tiền đó.
Hành vi gian dối trong giao dịch rồi chiếm đoạt tài sản mà có, nhân dân ta gọi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vậy mà Công an huyện Cao Lãnh lại kết luận đó là việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo tờ giao kèo mua bán đất ngày 30/5/2007. Trên cơ sở kết luận của Công an huyện Cao Lãnh, Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án dân sự. Chính vì thế mà nguyên đơn tiếp tục kháng cáo và cho rằng việc giải quyết vụ án của Công an huyện Cao Lãnh, Tòa án huyện Cao Lãnh là chưa khách quan.
Những người quan tâm đến vụ án này mong rằng, vụ án được giải quyết khách quan, đúng pháp luật để bảo đảm công bằng và tính nghiêm minh của pháp luật.