Cách đây mấy chục năm, người Mã Liềng hay còn gọi là người Chứt, sống biệt lập trong các cánh rừng hoang rậm dưới chân dãy Trường Sơn, đu bám vào thiên nhiên, săn bắt hái lượm chả khác gì thời nguyên thủy.
Sau nghe theo lời vận động của chính quyền, họ đã từ bỏ cuộc sống ăn hang ở lỗ, bỏ lại lời thề thiêng nơi hốc đá để hạ sơn.
Giờ, nhờ sự quan tâm, đầu tư của Đảng và Nhà nước, những con người vốn chỉ quen sống trong hang đá, lang thang từ cánh rừng này sang ngọn núi khác ấy đã biết thành lập, xây dựng Chi bộ Đảng, biết trồng lúa nước, cây ăn quả, cây hoa màu kết hợp phát triển chăn nuôi để bữa ăn thêm no, đêm ngủ thêm ấm và nhất là con em họ được đến trường. Vượt qua định mệnh đeo đẳng ngàn đời, họ đã và đang nỗ lực hết mình trên hành trình “cõng” ước mơ vượt núi.
Quá khứ nhuốm màu u tối
Giữa dải đất miền Trung khô cằn đá sỏi, có một dãy núi luôn bồng bềnh mây trắng có cái tên khá lạ là Giăng Màn. Điều khiến cho dãy núi này trở thành một cái tên được nhiều người biết đến là bởi câu chuyện về hành trình gần 60 năm của một tộc người trong cuộc hồi sinh quyết liệt. Tộc người bé nhỏ ấy có tên gọi Mã Liềng, hay là Mơ Leng, tên của một loài đại bàng trên núi đá.
Ông Hồ Văn Chang: “Người Chứt giờ đã quen với việc cấy cày, không còn lo đói nữa”
Trong không gian yên lặng của bản Kè, thuộc xã Lâm Hóa, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình, chúng tôi ngồi nghe những người già Mã Liềng kể về “công cuộc hồi sinh” của dân tộc mình, một dân tộc đã tưởng chừng như đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, thế nhưng khi bước ra khỏi rừng sâu, bỏ lại lời thề thiêng nơi hốc đá, họ bắt đầu nuôi giấc mơ "vượt núi" mà tổ tiên mình chưa hề nghĩ tới...
Trước năm 1959, khi chưa được phát hiện và di dời về các vùng đất trũng, người Mã Liềng sống trong các hang hốc đá nơi rừng sâu, núi thẳm. Hễ gặp người lạ là họ chạy trốn như chạy trốn kẻ thù. Rất nhiều người Kinh gọi họ là tộc "người rừng". Cuộc sống “ăn rừng, ngủ thác” của họ với rất nhiều tập tục, thói quen sinh hoạt chả khác gì thời nguyên thủy. Họ đập dập vỏ cây quấn làm quần áo, sống bằng việc săn bắt, hái lượm. Thức ăn chủ yếu là hoa quả, thịt thú rừng và cá suối. Trong đời sống tâm linh của người Mã Liềng thì thần núi, thần sông, thần bếp... đóng vai trò vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, trong bất cứ gia đình Mã Liềng cũng có ba đồ vật, đó là chiếc nỏ, chiếc rọ đựng mũi tên, và cái đọi hương để thờ tổ tiên.
Nhưng, luật tục khắt khe nhất của người Mã Liềng là luật tục về sinh đẻ của phụ nữ. Mỗi khi sắp đến kỳ sinh nở, người phụ nữ sẽ được gia đình làm cho một cái chòi ngoài bờ suối. Họ phải ra đó ở rồi tự sinh con, và nuôi dưỡng cho đến khi đứa trẻ biết cười. Sau đó, gia đình sẽ tiến hành làm lễ đuổi cái dơ bẩn, bệnh tật đi cho đứa con được sạch sẽ rồi mới đón cả 2 mẹ con bước vào nhà. Khi làm lễ tục phải hết sức cẩn trọng, tỉ mỉ, nếu không khi đưa con về nhà sẽ bị "con ma rừng" đeo đuổi.
Lễ tục đó được tiến hành theo trình tự: Ban đầu, người ta sẽ đào một cái hố sâu, rồi trải lá dong rừng xuống, lấy mấy viên đá nhặt ở cái khe suối về nung lên cho đỏ, đặt lên trên lá dong, tiếp đến là lớp rễ cây Lạng Hang. Sau đó, cha mẹ đứa bé sơ sinh sẽ cầm 2 nhánh cây dầu thơm ngồi ở trên hố và dội nước vào. Khi khói bay lên thì giơ đứa con lên cho cái dơ bẩn, bệnh tật bay theo gió, theo mây. Mùi thơm của khói bay lên từ hố sẽ đuổi "con ma" về với rừng.
Theo già Hồ Văn Chang thì luật tục đó bắt nguồn từ quan niệm rằng: Con nai, con hoẵng sinh ra đã tự đi được thì đứa trẻ Mã Liềng sinh ra cũng phải làm được như thế, sau này mới khuất phục được Thần núi, Thần sông. Với quan niệm đó, đã có không biết bao trẻ sơ sinh bị chôn vùi bên bờ suối vì không nhận được sự trợ giúp của người thân, của cộng đồng lúc mới chào đời. Không những thế, từ xa xưa, người Mã Liềng đã có thói quen dùng các loại lá rừng để điều trị mỗi khi đổ bệnh. Họ gần như chẳng hề biết đến trạm y tế, thuốc men. Nhiều người bệnh nặng quá không qua được, dân bản chỉ coi đó là “sự chọn lọc tự nhiên”....
Bước ra khỏi... lời nguyền
Những hủ tục, những tháng ngày phiêu dạt nơi đầu rừng xó núi ấy nay đã trở thành ký ức kể từ khi bà con theo Bộ đội Biên phòng (BĐBP) về cắm bản, định canh, định cư. BĐBP bảo, dân tộc Mã Liềng đã vượt biết bao nhiêu ngọn núi, bao nhiêu quả đồi mà có thoát được lời nguyền đâu? Vậy thì cái đầu của người Mã Liềng phải nghĩ khác đi thôi, phải biết vượt qua sự cổ hủ, an phận và biếng nhác to như quả núi đè nặng trong ý thức mỗi người. Muốn làm được như thế thì chỉ có thể bằng cách lao động chăm chỉ, phải học cái chữ Bác Hồ, phải sống định canh, định cư mới mong vượt qua được nghèo đói, bệnh tật đeo đẳng.
Chị Hồ Thị Ngam: “Nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đời sống của đồng bào đã khá dần lên”
Còn ở Rào Tre (Hương Liên, Hương Khê, Hà Tĩnh), những người già đã sống qua 70 mùa măng đều thuộc lòng câu chuyện rằng, dân tộc của họ mang lời nguyền truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, mãi sống kiếp lang thang, đời đời cô độc như đại bàng không có tổ, sinh ra, lớn lên, rồi chết đi trong hang đá. Những “người anh em” Mày, Chứt, Rục... ở Minh Hóa cũng không nằm ngoài quy luật là phải “ăn đời ở kiếp” sau bóng núi. Họ sống lầm lũi giữa rừng sâu, không mấy liên hệ với cộng đồng xung quanh mình...
Trưởng bản Rào Tre Hồ Kính vẫn nhớ cái ngày BĐBP Hà Tĩnh lập tổ công tác ở Rào Tre. Đó cũng là ngày bà con bắt đầu làm quen với những sinh hoạt theo khuôn khổ mà các cán bộ, chiến sỹ trong tổ công tác đề ra. Những ngày tháng ấy, dòng Rào Tre đã chứng kiến và ghi lại trong lòng nó biết bao gian khó mà những người lính quân hàm xanh phải vượt qua để cùng với dân bản xây dựng đời sống mới. Cả ngàn ngày như một, sáng sớm, các anh em trong tổ phải dậy sớm nấu cơm chia cho bà con ăn để còn ra ruộng. Sau khi phân phát dụng cụ lao động cho từng người, các anh mỗi người một hướng, theo sát bà con để hướng dẫn cách cấy cày, xuống giống, làm cỏ, bón phân... cho đến khi mặt trời xuống núi mới về bản. Mỗi tuần ba lần, người dân Rào Tre lại theo tiếng kẻng tập hợp ra đầu bản để cùng BĐBP tắm gội, giặt giũ quần áo và làm vệ sinh bản làng.
Ở bản Ó, Yên Hợp hay Mò O Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa (Minh Hóa, Quảng Bình) cũng vậy. Khi màn đêm buông xuống, mỗi nếp sàn trong bản đã tắt lửa, bà con yên giấc thì những người lính biên phòng Đồn BP Cà Xèng lại bận rộn với những công việc không tên. Vốn bởi bà con nơi đây đã quen với nếp sống tự do, hễ có gạo, có thóc giống là đem đổi lấy rượu hoặc những nhu yếu phẩm được cấp như xà phòng thơm, muối, bột ngọt đều đem ra dùng rất tùy tiện, hoang phí nên chẳng còn cách nào khả dĩ hơn là tổ công tác phải tự quản lý mọi thứ và cấp cho bà con theo định lượng từng ngày mới mong giữ được gạo muối cho bà con no lòng, giữ được hạt giống để gieo trồng cho vụ sau.
Thắp sáng tương lai
Thế mới biết, trong mỗi hạt giống bà con gieo xuống, trong mỗi nắm cơm bà con mang theo để ăn lúc đói lòng khi lao động đã chứa đựng biết bao tình cảm, trách nhiệm và cả hi vọng của những người cán bộ, những người lính đang gánh vác trách nhiệm cao cả là đưa bà con trở về hòa nhập trong đời sống cộng đồng, để các vụ mùa trên 10ha đất thung lũng Rục Làn rực màu vàng lúa chín, năng suất đạt gần 40tạ/ha. Bài toán lương thực cho người Rục, dù chưa hết khó khăn nhưng đã bắt đầu có lời giải.
Cứ dần từng bước một, diện mạo của những xóm bản người Mã Liềng, người Rục, người Chứt sau bóng núi Giăng Màn đã dần thay đổi. Trong báo cáo tổng kết hàng năm của các xã Lâm Hóa, Thượng Hóa (Quảng Bình) hay Hương Liên (Hà Tĩnh) luôn có những con số cho thấy sự phát triển tương đối ổn định của những cộng đồng người Chứt tại địa phương.
“Người Rào Tre cảm ơn Đảng, cảm ơn Nhà nước, cảm ơn Bộ đội Biên phòng nhiều lắm. Nhờ có các Dự án, Chương trình như "Ngói hóa nông thôn", hay "Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo" mà giờ chúng tôi được ở trong những ngôi nhà kiên cố, không phải lang thang rừng núi nữa. Con cái lớn lên được học hành, người già ốm đau được chữa bệnh, trồng lúa thì được cán bộ hướng dẫn tận tình. Bà con vui lắm”, chị Hồ Thị Ngam ở bản Rào Tre tâm sự.
Một góc Lâm Hóa
Thung lũng Rục Làn đang vào mùa lúa mới. Những vạt rừng dó bầu ở Hương Liên hứa hẹn sẽ cho trầm. Những đứa trẻ người Rục, người Mày hay Mã Liềng, Cọi, A Rem đang vui chân sáo tới trường, lòng luôn nhớ lời của các chú biên phòng rằng, người Kinh, người Chứt, người Mông, người Dao hay người Vân Kiều đều là anh em, cùng là đồng bào nên phải yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, cùng chung tay bảo vệ Tổ quốc.
Và mỗi ngày, dòng nước Rào Tre, Rào Cái, Hà Nông lại rì rào chảy qua những vách đá, bãi bồi và cả những vạt lau lách hai bờ. Dòng nước ấy đang mang câu chuyện về sự hồi sinh của một dân tộc nơi núi rừng biên ải để kể cho những miền đất xa xôi mà nó đang chảy tới. Trong những câu chuyện ấy, Đảng, Nhà nước và BĐBP là những cái “tên” luôn được đồng bào nhắc đến với lòng biết ơn sâu sắc.