Bảy mươi năm bền bỉ phấn đấu, trung thành, vững bước dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với sự lớn mạnh của đất nước, Tòa án nhân dân Việt Nam đã trưởng thành vượt bậc, phát triển mạnh mẽ cả về tổ chức đội ngũ, trình độ chính trị-pháp lý.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã giành được độc lập bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấn động thế giới, đánh dấu mốc son lịch sử của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng anh dũng. Ngay sau khi giành được chính quyền, chúng ta đã xóa bỏ bộ máy hành chính, quân đội, bộ máy tư pháp của chính quyền phong kiến.... đồng thời, khẩn trương thiết lập bộ máy Nhà nước cách mạng, trong đó có cơ quan Tòa án, xây dựng một Nhà nước dân chủ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Xác định Toà án là một thiết chế Tư pháp quan trọng của bộ máy Nhà nước, được giao nhiệm vụ thực hiện quyền xét xử, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân…Vì vậy, chỉ sau Lễ Tuyên ngôn độc lập 11 ngày, ngày 13/09/1945, thay mặt Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 33C thiết lập các Toà án quân sự; và ngày 24/01/1946 ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án nhân dân và các ngạch Thẩm phán. Tòa án quân sự là tiền thân của Hệ thống Tòa án nhân dân hiện nay. Và ngày 13/9 hàng năm đã trở thành Ngày truyền thống của hệ thống Tòa án nhân dân Việt Nam.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chụp ảnh lưu niệm với lãnh đạo TANDTC
Từ đó đến nay, quá trình xây dựng và phát triển của hệ thống Tòa án nhân dân đã gắn liền với quá trình hoàn thiện và củng cố bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); gắn liền với tiến trình cải cách nền tư pháp quốc gia, nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, luôn đề cao hoạt động bảo vệ quyền con người, quyền công dân, được coi là nhân tố tạo dựng một xã hội dân chủ, tiến bộ, văn minh với nhiều mốc son ghi nhận nhiều chặng đường phát triển của Tòa án nhân dân. Đó là sau khi ban hành Sắc lệnh số 33C ngày 13/09/1945 thành lập các Tòa án quân sự, ngày 24/01/1946 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ về tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở ; tổ chức các Toà án và quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán.
Ngày 09/11/1946, Quốc hội Khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta. Tại Chương VI bản Hiến pháp này quy định về “Cơ quan tư pháp”, theo đó Cơ quan tư pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gồm có: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm; các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63).
Ngày 20/3/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo TW về phòng, chống tham nhũng đã thăm và làm việc với Ban cán sự Đảng và cán bộ chủ chốt TANDTC về việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác của các Tòa án từ sau ĐH Đảng khóa XI đến nay
Năm 1958 có thể được xem là dấu mốc quan trọng của công cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất. Tại Hội nghị lần thứ 14 Khóa II (tháng 11/1958) Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chủ trương tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền các cấp từ trung ương đến cơ sở. Trong tình hình chung đó, bộ máy Nhà nước nói chung, Toà án nhân dân nói riêng được tăng cường và cải cách thêm một bước mới. Tại kỳ họp lần thứ tám, Quốc hội khóa I, tháng 4/1958 Quốc hội quyết định thành lập Toà án nhân dân tối cao và Viện công tố nhân dân trung ương, tách hệ thống Toà án nhân dân và Viện công tố khỏi Bộ Tư pháp.
Ngày 31/11/1959, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp mới của Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (công bố ngày 01/01/1960). Hệ thống Toà án nhân dân theo Hiến pháp năm 1959 bao gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự.
Căn cứ quy định của Hiến pháp năm 1980, về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân được cụ thể hoá bằng Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 3/7/1981. Bộ Tư pháp được tái lập lại, Bộ trưởng Bộ Tư pháp được giao quản lý các Tòa án địa phương về mặt tổ chức; Tòa án nhân dân tối cao lãnh đạo các Tòa án nhân dân địa phương về nghiệp vụ, khoa học chuyên môn, việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động xét xử.
Ngày 31/7/2015, tại Phủ Chủ tịch, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trao Quyết định bổ nhiệm 15 Thẩm phán TANDTC.
Năm 1992, Hiến pháp được sửa đổi, nhằm giải quyết yêu cầu của thực tiễn, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1993 quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân được mở rộng. Tòa án nhân dân đảm nhiệm thêm chức năng giải quyết các tranh chấp kinh tế của hệ thống Trọng tài kinh tế Nhà nước (các cơ quan Trọng tài Kinh tế chấm dứt hoạt động vào tháng 6/1994), giải quyết các tranh chấp trong quan hệ hành chính và lao động. Trong các Tòa án nhân dân được thành lập thêm Tòa chuyên trách là: Tòa Kinh tế, Tòa Lao động và Tòa Hành chính…có nhiệm vụ chuyên trách giải quyết, xét xử các tranh chấp về kinh tế, lao động và hành chính nảy sinh trong xã hội.
Nhằm cụ thể hóa các chủ trương, định hướng của Đảng về xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, và yêu cầu cụ thể đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, đặc biệt là Văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, tháng 4/2002 tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, thay thế Luật Tổ chức TAND năm 1992, được sửa đổi bổ sung năm 1993 và năm 1995. Theo Luật này, Tòa án nhân dân tối cao quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự về mặt tổ chức, có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương và Bộ Quốc phòng. Đây là một bước cải cách tư pháp quan trọng đối với hệ thống Tòa án nhân dân.
Kế thừa, phát triển tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW năm 2002 của Bộ Chính trị về công tác tư pháp, ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, đã nêu rõ: Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm, tranh tụng là khâu đột phá trong công cuộc cải cách tư pháp; Thể hiện sự quyết tâm chính trị cao của Đảng về Chiến lược cải cách tư pháp sâu rộng, cơ bản, thường xuyên và lâu dài nền tư pháp nước nhà.
Ngày 6/2/2014, Đoàn công tác của UBTVQH do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng làm Trưởng đoàn đến thăm và chúc Tết cán bộ, công chức, nhân viên TANDTC
Cụ thể hóa các Nghị quyết nêu trên của Đảng, Hiến pháp năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập Hiến, đã quy định rõ tại Điều 102: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”.
Cùng với nguyên tắc độc lập xét xử; nguyên tắc suy đoán vô tội; chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo; Hiến pháp năm 2013 còn quy định cụ thể nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (khoản 5 Điều 103); Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo về chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Tháng 11/2014, để phù hợp với nội dung Hiến pháp, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân mới. Theo đó, hệ thống tổ chức của Tòa án nhân dân được tổ chức thành 4 cấp: Tòa án nhân dân tối cao; Toà án nhân dân cấp cao; Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Tòa án huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Cùng với đó là nhiều thay đổi về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, chế độ bổ nhiệm và thi tuyển Thẩm phán cùng các quy định khác liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trong giai đoạn mới.
Đặc biệt, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiều thay đổi: Từ số lượng 120 Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao theo Luật cũ, nay theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 rút xuống chỉ còn 13 đến 17 người. Quy trình bổ nhiệm cũng có thay đổi cơ bản: Sau khi Hội đồng tuyển chọn và giám sát Thẩm phán quốc gia tuyển chọn và lên danh sách, trải qua quy trình lấy phiếu tín nhiệm ở nhiều cấp, sau đó trình Quốc hội phê chuẩn. Căn cứ vào Nghị quyết phê chuẩn của Quốc hội, Hội đồng Tuyển chọn Thẩm phán mới trình Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm.
Ngày 26/06/2015 vừa qua, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã chính thức thông qua Nghị quyết đề nghị phê chuẩn của Chánh án TANDTC về việc bổ nhiệm 15 Thẩm phán TANDTC. Như vậy, trong lịch sử lập hiến, lập nước và trong suốt lịch sử 70 năm xây dựng và phát triển của Tòa án nhân dân, lần đầu tiên trong Hiến pháp nước nhà đã quy định rõ: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, thực hiện quyền lực quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Đồng thời, đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử nền tư pháp đất nước, một chức danh tố tụng cao cấp là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao được Quốc hội toàn thể xem xét, cân nhắc và phê chuẩn.
Như vậy qua quá trình 70 năm xây dựng và phát triển với những thay đổi về tổ chức, về thẩm quyền, nhưng trong cơ cấu bộ máy các cơ quan Nhà nước, Tòa án được khẳng định là cơ quan xét xử của Nhà nước, thực hiện quyền tư pháp, nhân danh Nhà nước tiến hành các hoạt động xét xử nhằm mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Nghị quyết 49-NQ/TW nêu rõ: “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Nghiên cứu, xác định hợp lý phạm vi thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự theo hướng chủ yếu xét xử những vụ án về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, những vụ án liên quan đến bí mật quân sự…
Đổi mới việc tổ chức phiên Tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên Tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”.
Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết của Đảng, Ban Cán sự Đảng Tòa án nhân dân tối cao đã xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong việc thực hiện Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp đến 2020”, đó là tích cực tham gia vào việc “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, phát luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp”; Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của Tòa án nhân dân; Đổi mới việc tổ chức các phiên Tòa xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng theo hướng đảm bảo tính hiệu quả, công khai, dân chủ, nghiêm minh theo tinh thần cải cách tư pháp và quy định của pháp luật tố tụng tư pháp; Xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án trong sạch, vững mạnh theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hoá về tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ; Xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ và từng bước hiện đại cho hoạt động xét xử; Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với hoạt động của Tòa án ; Tăng cường và mở rộng các hoạt động hợp tác quốc tế; Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao vai trò của các tổ chức Đảng trong các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Với nhiệm vụ xét xử, mặc dù số lượng các loại vụ án hằng năm tăng gần 20.000 vụ so với cùng kỳ năm trước, tính chất các vụ án ngày càng phức tạp, phát sinh một số hành vi phạm tội và tranh chấp mới, nhưng với việc chủ động nắm bắt tình hình, đề ra nhiều giải pháp hữu hiệu và tổ chức thực hiện quyết liệt tại Tòa án các cấp; đặc biệt, Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao đã xác định và tổ chức thực hiện tốt 04 giải pháp đột phá nhằm nâng cao chất lượng xét xử, đó là: (1) Tăng cường và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa; (2) Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức; (3) Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn xét xử và đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật; (4) Đổi mới công tác hành chính tư pháp, tạo thuận lợi cho người dân có việc liên quan đến Tòa án…cho nên hàng năm, kết quả giải quyết, xét xử các loại vụ án tiếp tục có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng.
Triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Tòa án nhân dân tối cao đang khẩn trương lấy ý kiến đóng góp và hoàn thiện dự thảo Bộ Luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính (sửa đổi) theo sự phân công của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Nghiên cứu, góp ý kiến xây dựng dự thảo Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi); đồng thời, gấp rút xây dựng, kiện toàn bộ máy tổ chức, nhân sự của Tòa án nhân dân 4 cấp với nhiều thay đổi lớn, đảm bảo để các Tòa án thực hiện đúng đắn, có hiệu quả quyền tư pháp theo quy định của Hiến pháp 2013.
Cùng với việc tích cực triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về công tác Tòa án; các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao đã chủ trương chỉ đạo toàn hệ thống Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự các cấp thường xuyên, tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, quán triệt, học tập lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Tòa án “Phụng công thủ pháp, chí công công vô tư”, phải “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”, “Tận tụy phục vụ nhân dân” để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao.
Quán triệt sâu sắc lời di huấn của Bác Hồ, từ năm 2007 đến nay, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng thi đua khen thưởng Tòa án nhân dân thường xuyên phát động phong trào thi đua trong toàn hệ thống Tòa án với khẩu hiệu xuyên suốt là: “Phụng công thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm phải “gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” theo lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cán bộ Tòa án; gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, kết hợp với việc khắc phục những tồn tại sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết TW4 (Khóa XI).
Đặc biệt, ngày 26/12/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Quyết định số 223/TANDTC-TĐKT về việc ban hành Quy chế Thi tuyển danh hiệu “Thẩm phán giỏi”, xét tặng danh hiệu “Thẩm phán tiêu biểu”, “Thẩm phán mẫu mực” trong hệ thống Tòa án nhân dân các cấp. Năm 2014 vừa qua, đã có 35 đơn vị Tòa án nhân dân lần đầu tiên tổ chức thi tuyển danh hiệu “Thẩm phán giỏi” với 193 Thẩm phán tham dự cuộc thi, tạo nên động lực thúc đẩy các Thẩm phán trong toàn hệ thống Tòa án nhân dân thi đua nâng cao chất lượng xét xử, tích cực tu dưỡng rèn luyện đạo đức; nhiều đơn vị Tòa án đã tổ chức cuộc thi “Thư ký giỏi”, cùng nhiều phong trào thi đua khác, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của phong trào thi đua yêu nước, hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Tòa án nhân dân các cấp năm 2014.
Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử 70 năm xây dựng và trưởng thành, hệ thống Tòa án nhân dân có sáng kiến tổ chức thi “Thẩm phán giỏi”, lựa chọn vinh danh “Thẩm phán ưu tú”, “Thẩm phán mẫu mực” nhằm giáo dục chính trị tư tưởng, động viên cán bộ, Thẩm phán thi đua rèn luyện phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tạo động lực xây dựng Tòa án nhân dân ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao.
Với bề dày 70 năm xây dựng và phát triển, với những đổi mới tích cực, những cải cách đúng đắn, sự nỗ lực của cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp trên các mặt công tác… các Tòa án nhân dân đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ công lý, xây dựng và củng cố Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Năm 1985 nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống Toà án nhân dân, tại Quyết định số 687-KT/HĐNN7 ngày 04/7/1985 Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tặng thưởng “Huân chương Hồ Chí Minh” cho hệ thống các Toà án nhân dân; Năm 2005 nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống Toà án nhân dân, tại Quyết định số 1208/2005/QĐ-CTN ngày 17/10/2005 của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định tặng thưởng “Huân chương Sao vàng” cho hệ thống các Toà án nhân dân.
Với những công lao, thành tích to lớn đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày Truyền thống Tòa án nhân dân (13/9/1945 - 13/9/20215), Toà án nhân dân tối cao đã được Nhà nước tặng thưởng “Huân chương Hồ Chí Minh” lần thứ hai cho hệ thống các Tòa án nhân dân.
Kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Tòa án nhân dân, bước sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt mới của tiến trình cải cách nền tư pháp đất nước theo định hướng của Đảng, cán bộ, công chức, Thẩm phán, viên chức, người lao động các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự trong cả nước nguyện phát huy truyền thống tốt đẹp của mình, ra sức rèn luyện phẩm chất đạo đức theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trung thành, tin tưởng tuyệt đối vào đường lối và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ chính trị; phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp; nỗ lực phấn đấu, ra sức thi đua yêu nước; hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và đổi mới đất nước, củng cố nền pháp chế, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và tiến bộ.