Trên vùng ngã ba biên giới Việt – Lào – Cam Pu Chia, thuộc tỉnh Kon Tum có một trang trại cao su xanh thẳm giữa buôn làng của người dân tộc Xơ Đăng và đó cũng là tài sản có thể kiếm hàng trăm triệu mỗi tháng cho gia đình ông A Xem.
Trong những tháng năm đánh Mỹ giữa rừng sâu núi cao, ông là xã đội trưởng xã Đăk Xú, còn bà là thượng sĩ, cán bộ huyện đội Sa Thầy. Sau ngày giải phóng 1975, ông khoác ba lô dắt đứa con trai đầu, bà cõng con gái về làng Đăk Xú, một xã ở vùng biên giới thuộc huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Và đến hôm nay, gần 40 năm đã qua đi, chính mảnh đất này đã trở thành ngôi nhà hạnh phúc của ông bà và các con, nơi “dòng nhựa trắng” hàng ngày tuôn trào những sản phẩm, mang lại cuộc sống mới, cuộc sống của những con người tiên phong đi mở đất.
Có lẽ ở vùng biên giới này, số người có thu nhập tiền tỷ như A Xem quả là rất ít. Năm nay hơn 60 tuổi, ông là người dân tộc Xơ Đăng, theo cách mạng từ nhỏ giữa núi rừng biên giới thuộc xã Đăk Xú, huyện Ngọc Hồi, 19 tuổi ông đã được kết nạp Đảng. Ông nguyên là Ủy viên Ban Thường vụ huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum vừa nghỉ hưu.
Ông A Xem bên vườn cao su của gia đình.
Người đảng viên hơn 40 năm tuổi Đảng này đã gần trọn cuộc đời bám làng, bám đất rừng biên giới, vừa công tác vừa làm kinh tế gia đình. Trải qua những biến cố, thăng trầm có lúc tưởng chừng phải bỏ cuộc, nhưng với khát vọng vượt qua nghèo khó của một đảng viên suốt cuộc đời gắn bó với buôn làng Tây Nguyên, ông đã cùng với gia đình khai mở những vùng đất rừng hoang hóa, để đưa cây cao su về trồng trên vùng đất mới thuộc xã Đăk Xú – huyện Ngọc Hồi. Đến hôm nay gia đình ông A Xem đã có 20 hec ta cao su, trong đó 18 hec ta đã cho thu hoạch.
Ông bồi hồi nhớ lại: "Năm 1994, lúc ấy tôi bắt đầu muốn trồng cao su nhưng không có vốn. Mà ngày ấy ở Ngọc Hồi cũng chưa có ngân hàng, cả huyện lại chưa có ai trồng cao su. Đất rừng thì mênh mông nhưng cây rừng thưa thớt, máy cày, máy ủi không có, lao động cũng không, vì người dân ở đây không ai đi làm thuê, việc nhà ai người ấy làm. Nói tóm lại là rừng núi hoang vu, dân cư thưa thớt, cuộc sống vất vả, thiếu thốn…".
Buổi đầu gian nan ấy, cả gia đình phải gồng sức mà bạt đồi, phát cỏ, khai phá đất rừng. Có lúc ông phải hợp đồng với anh em bộ đội đóng quân quanh vùng để dọn đất, đào hố, gánh phân. Ông phải bán hết tài sản, rồi bán luôn cả đàn bò là cơ nghiệp lớn nhất của gia đình để đắp đổi lấy vốn. Cây cao su được ông đưa về trồng lúc ấy, nhiều người ngơ ngác, có người còn cho ông là không bình thường, khi trồng cái cây mà không ai biết. Ông phải mất nhiều thời gian để tuyên truyền, giới thiệu cho bà con về lợi ích kinh tế của cây cao su. Nhưng nói mãi mà ít người chịu hiểu hoặc có biết thì người ta cũng lắc đầu.
Từ ít đến nhiều, những cây cao su của A Xem đầu tiên trên đất đồi rừng vùng biên giới Đăk Xú đã bật dậy những chồi xanh, vươn cao trỗi dậy từng ngày. Lúc này, ở gần đó đã có nông trường cao su Plei Kần, ông đến gặp anh em kỹ thuật của nông trường để học hỏi thêm về kỹ thuật chăm sóc và chuẩn bị khai thác những dòng nhựa đầu tiên.
Giám đốc nông trường cao su Plei Kần, Vũ Bá Văn cho biết: “Chúng tôi đã sát cánh với gia đình bác A Xem, giúp bác việc chăm sóc vườn cây, cho cán bộ kỹ thuật hướng dẫn tỉ mỉ cách khai thác những sản phẩm đầu tiên”.
Từ năm 1994 đến năm 2003, tức là khoảng 10 năm, A Xem dồn hết sức người, sức của để khai phá đất hoang, bạt núi, mở đường, khoanh lô, cắm tiêu… để trồng được 20 ha, tính ra số cây là 11.000 cây.
Hiện nay, có 18 ha tương đương 10.000 cây đã cho khai thác. Rừng cao su bạt ngàn xanh trên đất rừng biên giới là thành quả lao động gần 30 năm của “người đảng viên đi trước” đã đưa cây cao su sâu rễ, bền gốc nơi ngã ba biên giới Ngọc Hồi.
Ông tâm sự: “Mình là đảng viên mà lại là người dân tộc thiểu số, mình nghĩ phải làm và mình làm thật, dù có người không ủng hộ. Vấn đề mình trăn trở hiện nay là làm sao có nhiều hơn nữa, bà con các dân tộc Xơ Đăng, Giẻ Triêng, người Tày, người Mường ở tỉnh Hòa Bình vào đây làm ăn cũng biết trồng cao su để bà con giàu lên”.
Sau khi thăm vườn cây cao su, A Xem đưa chúng tôi vào nhà ở ngay đầu lô cao su. Vừa bước vào nhà, bà Y Nia – vợ ông đon đả mời khách, cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy toát lên trên gương mặt thuần hậu của người phụ nữ Xơ Đăng đã quanh năm gắn bó với đất rừng Đăk Xú.
Bà nguyên là thiếu úy Quân đội trong những ngày đánh Mỹ gian khổ và đã gặp ông ở huyện ủy Sa Thầy. Hai người nên nghĩa vợ chồng trong khói lửa chiến tranh và bà đã sinh cho ông 1 con trai, 3 con gái. Đến nay, các con của ông bà đều đã trưởng thành, có công ăn việc làm ổn định.
Chia tay gia đình A Xem giữa vườn cao su đang cho những dòng nhựa trắng, trời Tây Nguyên trong xanh, nắng vàng rực rỡ, trong ánh mắt người đảng viên hơn 40 năm tuổi Đảng chứa đựng một tình yêu Tây Nguyên bao la, ánh lên niềm tin về cuộc đổi đời đã và đang đến với bà con đồng bào các dân tộc nơi vùng quê biên giới thân yêu.