Cho rằng vui mừng về EVFTA đi vào hiệu lực nhưng đó mới chỉ là bước đầu, Thủ tướng nêu 6 câu hỏi lớn cần trả lời khi bước vào triển khai thực hiện hiệp định này.
Thủ tướng: EU luôn là một thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng và tiêu chuẩn cao đối với hàng hóa, dịch vụ, nơi không có chỗ cho những doanh nghiệp thiếu kiên trì, không sáng tạo, hàng hóa kém chất lượng
Sáng nay (6/8), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị trực tuyến với chủ đề “Triển khai Kế hoạch thực thi Hiệp định EVFTA”.
Hội nghị có sự tham dự của lãnh đạo 63 tỉnh, thành phố tại các đầu cầu truyền hình cũng như lãnh đạo các hiệp hội doanh nghiệp của Việt Nam và EU nhằm thảo luận về một số nhóm vấn đề lớn liên quan đến công tác truyền thông về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và FTA nói riêng; các giải pháp để tận dụng hiệu quả cam kết; giải pháp về phát triển nguồn nhân lực, phát triển hạ tầng cơ sở để đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh hiệu quả cũng như vấn đề về cạnh tranh trên thị trường nội địa với các sản phẩm của EU…
Nhiều cơ hội mới cho Việt Nam và EU
Phát biểu mở đầu, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhắc lại cách đây khoảng 1 năm, ngày 30/6/2019, Việt Nam và EU đã ký chính thức ký Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU và Hiệp định Bảo hộ Đầu tư Việt Nam-EU, thể hiện tư duy chiến lược, mở ra không gian rộng lớn giữa hai bên.
Thủ tướng cho biết từ đầu năm 2020 liên tục điện đàm với lãnh đạo nhiều quốc gia, trong đó có điện đàm với Chủ tịch Ủy ban châu Âu (EC). Hai bên cùng tự hào hướng tới một mốc son quan hệ mới, đó là từ ngày 1 tháng 8 năm 2020, những điều khoản của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU chuyển mình mạnh mẽ bước vào thực tiễn cuộc sống, đáp ứng sự mong đợi của doanh nghiệp của người dân hai bên. Điều này càng có ý nghĩa khi cả hai bên đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế xã hội do tác động nghiêm trọng của đại dịch Covid-19.
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có tiêu chuẩn cao, toàn diện, độ mở lớn và cân bằng lợi ích cho cả hai bên. Riêng đối với Việt Nam, nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy trong điều kiện bình thường thì Hiệp định có thể góp phần giúp GDP tăng thêm bình quân lên đến 3,2 % trong giai đoạn 5 năm đầu thực hiện, bình quân lên đến 5,3% cho 5 năm tiếp theo và lên đến 7,72 % cho 5 năm sau đó.
Một nghiên cứu khác của Ngân hàng Thế giới cho thấy, nếu thực hiện đồng thời cả Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương thì GDP của Việt Nam có thể của Việt Nam có thể tăng thêm tới 3,2% trong thập kỷ 2021-2030.
Với cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ, cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế của EU, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU dự kiến sẽ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng thêm khoảng 42 % vào năm 2025 và gần 45% vào năm 2030 so với kịch bản không có hiệp định và tăng thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam.
Không chỉ thế, Hiệp định còn giúp tăng thêm gần 150.000 việc làm mỗi năm. Theo Ngân hàng Thế giới, Hiệp định có thể giúp cho 800 nghìn đến 1 triệu người thoát nghèo vào năm 2030.
Phải làm gì, làm như thế nào?
Tuy nhiên, Thủ tướng cũng nhấn mạnh: "EU luôn là một thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng và tiêu chuẩn cao đối với hàng hóa, dịch vụ, nơi không có chỗ cho những doanh nghiệp thiếu kiên trì, không sáng tạo, hàng hóa kém chất lượng".
Do đó, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU mở ra cơ hội để Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tự nâng cấp chính mình, chấp nhận những luật chơi mới khó hơn để tiến sâu hơn, vươn lên những công đoạn có giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng, chuỗi phân phối của EU và toàn cầu.
Điều này còn có ý nghĩa quan trọng với Việt Nam trong bối cảnh nhiều tập đoàn doanh nghiệp lớn của EU đang có dịch chuyển đầu tư, đa dạng hóa các chuỗi cung ứng sản xuất hàng hóa.
Điều này còn có ý nghĩa quan trọng với Việt Nam trong bối cảnh nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn của EU đang có những dịch chuyển đầu tư, đa dạng hóa các chuỗi cung ứng, sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, hiện nay tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang phải chịu những cơn gió ngược dữ dội của đại dịch COVID-19, khiến cho đời sống kinh tế-xã hội bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các chuỗi cung ứng, chuỗi phân phối bị gián đoạn. Các nền kinh tế lớn, đối tác hàng đầu của Việt Nam như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản đều chịu mức suy giảm kỷ lục về tăng trưởng kinh tế, ngay cả EU cũng bị suy giảm GDP 2020.
“Trong hội nghị hôm nay, chúng ta vui mừng về Hiệp định EVFTA đi vào hiệu lực với những ước tính lạc quan về tăng trưởng, xuất khẩu, nhưng tình hình kinh tế Thủ tướng nói. “Do vậy, ngay lúc này, câu hỏi lớn hơn, quan trọng hơn là chúng ta phải làm gì, làm như thế nào, nỗ lực ra sao để đạt được ước tính, những kết quả tốt đẹp đó, nhất là để nâng mình lên trong hợp tác của các đối tác EU, khối kinh tế phát triển hùng mạnh hàng đầu của thế giới?”.
Chủ động hội nhập quốc tế là một chủ trương lớn nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta và được cụ thể hóa phù hợp cho từng giai đoạn phát triển. Việt Nam đã ký kết, thực thi 13 hiệp định FTA với cả EVFTA, “nói thẳng thắn rằng, chúng ta đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm về cách làm, chịu cả những vấp váp, thua thiệt để rồi tự đứng lên, tiếp tục tiến bước”. Một tồn tại lớn nhất là nhận thức của các doanh nghiệp về EVFTA còn hạn chế và việc tận dụng cơ hội còn khiêm tốn. Nhiều cơ quan còn chậm xây dựng văn bản pháp luật liên quan, hướng dẫn thực thi còn thiếu thống nhất, gây khó cho doanh nghiệp. Đồng thời chúng ta còn nhiều hạn chế về hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, chất lượng, quy mô sản xuất còn nhỏ.
Chúng ta vui mừng về EVFTA đi vào hiệu lực nhưng đó mới chỉ là bước đầu, Thủ tướng đề nghị cấp bộ, các ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp cần tập trung thảo luận về một số nội dung.
Thứ nhất, tại sao hoạt động truyền thông về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và FTA nói riêng chưa hiệu quả? Nhận thức, hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp, người dân và ngay cả trong các cơ quan quản lý Nhà nước vẫn còn hạn chế. Phải làm gì để khắc phục được tình trạng này?
Thứ hai, tại sao việc tận dụng cơ hội từ các FTA chưa được như mong đợi? Có phải là do cơ chế chính sách của chúng ta còn chưa thông thoáng, còn tạo ra những rào cản vô hình đối với doanh nghiệp hay một phần do chính các doanh nghiệp của chúng ta đang còn thụ động, chưa thay đổi tư duy kinh doanh? Chính phủ, chính quyền các địa phương, các doanh nghiệp, người dân cần làm gì để tận dụng cơ hội tốt hơn? Thủ tướng yêu cầu Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam và các hiệp hội cần chủ động triển khai tốt đến mọi loại hình doanh nghiệp về EVFTA. Doanh nghiệp và người dân phải hiểu cặn kẽ hiệp định để triển khai có hiệu quả hơn.
Thứ ba, làm thế nào để phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao các doanh nghiệp, đây là yếu tố sống còn trong kinh doanh. Doanh nghiệp cần làm gì? Chính phủ, chính quyền địa phương trong cả nước cần làm gì để hỗ trợ hiệu quả? “Tôi lưu ý là ngay cả cán bộ cơ quan quản lý Nhà nước cần phải học hỏi, nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm, chung tay cùng doanh nghiệp để cam kết trong FTA và EVFTA đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp và người dân”, Thủ tướng nói.
Thứ tư, phải làm gì để phát triển kết cấu hạ tầng, vì đây là một yêu cầu hàng đầu để sản xuất kinh doanh có hiệu quả? Chính phủ tiếp tục nỗ lực ban hành nhiều quy định thuận lợi và tăng cường đầu tư ngân sách Trung ương, thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân FDI, nhu cầu lớn về đầu tư hạ tầng của Việt Nam, về giao thông, năng lượng, viễn thông, logistics… cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp của EU.
Thứ năm, yêu cầu về phát triển bền vững là nội dung quan trọng trong EVFTA có tiêu chuẩn cao, không chỉ về nâng cao hiệu quả kinh tế, mà đi đôi với các yêu cầu khắt khe về làm tốt hơn nhiệm vụ, trách nhiệm xã hội, lao động, việc làm và bảo vệ môi trường, “không thể bán hải sản tươi ngon, giá rẻ tại thị trường EU nếu là hải sản đánh bắt trái phép. Chúng ta phải làm gì để tất cả người dân, doanh nghiệp trong và cơ quan quản lý quan tâm cùng hành động?”
Thứ sáu, khi EVFTA có hiệu lực, nhiều sản phẩm của Việt Nam phải cạnh tranh trên thị trường nội địa với các sản phẩm của EU, không thể đóng cửa, dựng nên hàng rào bảo hộ, mà chúng ta phải thực hiện đúng cam kết, quản lý tốt thị trường, tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh. Như vậy, Chính phủ và doanh nghiệp cần phải làm gì? Bên cạnh đó, do có khác biệt về địa lý, trình độ phát triển, nên hàng của EU vào Việt Nam chủ yếu mang tính bổ sung cho nhau. Đây là điều ta cần chú ý phát huy.