Thủ tướng nhấn mạnh mục tiêu phát triển CNHT, đến năm 2020, Việt Nam có sản phẩm CNHT có khả năng canh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa.
Thủ tướng phát biểu tại Hội nghị
Ngày 19/12, đã diễn ra Hội nghị về các giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị
Hội nghị nhằm thảo luận, đưa ra những cái nhìn khách quan và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho ngành được coi là xương sống cho sự phát triển công nghiệp cũng như nền kinh tế đất nước.
Đây được xem là sự kiện cuối cùng trong chuỗi các hội nghị chuyên đề được tổ chức trong năm nay để giải quyết các vấn đề then chốt, nóng bỏng đối với nền kinh tế Việt Nam, một “công xưởng lớn” của thế giới.
CNHT còn nhiều hạn chế
Phát biểu kết luận Hội nghị, về tổng thể bức tranh CNHT của Việt Nam, Thủ tướng cho rằng, năng lực sản xuất sản phẩm CNHT trong nước dần được cải thiện, đáp ứng một bước tiến trình nội địa hóa của các ngành sản xuất, cụ thể là 40-45% cho ngành dệt may, da giầy, 10-20% cho sản xuất, lắp ráp ô tô dưới 9 chỗ, 15% điện tử tin học, viễn thông, 5% cho điện tử chuyên dụng và công nghệ cao.
Thủ tướng lấy ví dụ, Samsung có tỷ lệ sản xuất trong nước, bao gồm cả FDI và doanh nghiệp Việt Nam, trước đây bằng 0 thì nay trên 30%. “Đây được xem là một thành công, chứ người ta cứ nói Samsung là 100% nước ngoài, đó là nhầm lẫn”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng, cũng còn nhiều tồn tại, hạn chế như chúng ta chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt, nhiều ngành công nghiệp ưu tiên phát triển không đạt mục tiêu đề ra, cho nên CNHT kém phát triển. Tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghiệp còn ở mức thấp.
Nguyên nhân được xác định là thiếu chính sách đủ mạnh để tăng cường năng lực doanh nghiệp công nghiệp tư nhân, chưa tạo lập được môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi, minh bạch, ổn định, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng.
“Công tác xác nhận ưu đãi dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục sản phẩm CNHT ưu tiên phát triển mới có 23 giấy xác nhận ưu đãi. Thấp quá!”, Thủ tướng bày tỏ. “Bộ Công Thương cần rà lại xem đã sát chưa, đúng chưa để làm cơ sở giải quyết chính sách đối với CNHT”.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp trong nước chưa đủ lực để tham gia vào chuỗi cung ứng, sản xuất toàn cầu, nhất là khi trình độ công nghệ của Việt Nam còn khoảng cách so với các nước cùng khu vực, trong khi vẫn còn tư duy sản xuất sản phẩm khép kín.
Một hạn chế nữa Thủ tướng chỉ ra là nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao khi “nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng chuyên môn mới là điều quyết định”. Theo Thủ tướng, nguyên nhân là do nội dung đào tạo tại các trường kỹ thuật lạc hậu, không gắn với thực tiễn sản xuất, chưa đáp ứng được yêu cầu. “Vì sao Trường Hải Ô tô phát triển được, vì có trường đào tạo có quy mô, chất lượng tốt, ngay trong tập đoàn của mình”, Thủ tướng lấy ví dụ.
Theo Thủ tướng, sự gắn kết của doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp FDI còn hạn chế, một số doanh nghiệp FDI chưa chú trọng phát triển các nhà cung cấp nội địa.
Cần học hỏi ý chí phát triển đất nước của Nhật Bản, Hàn Quốc
Trước phân tích trên, Thủ tướng bày tỏ mong muốn Việt Nam cần phải đón bắt sự chuyển hướng của các nhà đầu tư, các nhà sản xuất để Việt Nam thành một công xưởng sản xuất, có thể của châu Á, của thế giới hay của ASEAN. Tinh thần là làm sao Việt Nam thành một cứ điểm cho sản phẩm của các tập đoàn đa quốc gia.
Để có thành công này, Thủ tướng cho rằng, phát triển CNHT cần có tinh thần như đội bóng quốc gia Việt Nam do HLV Hàn Quốc Park Hang-seo dẫn dắt với tầm nhìn chiến lược về bố trí đội hình, dành nguồn lực, cả thể lực và trí lực, “chứ bình bình thì làm sao thành công được”. “Các bộ, ngành, địa phương có tinh thần làm việc đó không. Các doanh nghiệp Việt Nam ngồi đây đã thành công và tiếp tục hàng vạn doanh nghiệp khác có muốn làm với tinh thần đó không”. Phải đưa tinh thần thể thao như thành công của đội tuyển Việt Nam vào kinh tế.
Nhìn nhận người Nhật Bản, Hàn Quốc có ý chí lớn phát triển đất nước, Thủ tướng cho rằng, cần học hỏi tinh thần đó trong phát triển CNHT của Việt Nam.
Thủ tướng nhấn mạnh phải nghiên cứu phát triển, áp dụng công nghiệp 4.0, kỷ nguyên số vào thực tế ở Việt Nam, trong CNHT. “Chúng ta không thể làm hết tất cả các phụ tùng, chi tiết liên quan nhưng nếu ô tô anh làm được 40-45% chi tiết phụ tùng thành công thì đã thành công căn bản CNHT”.
Thủ tướng đề nghị làm rõ hơn vai trò của các doanh nghiệp đầu tàu trong việc hỗ trợ, dẫn dắt doanh nhiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển và lần thứ 3 tại Hội nghị Thủ tướng nhắc lại “các doanh nghiệp cần quan tâm hơn đến nghiên cứu và phát triển”. Bộ Công Thương, các bộ chức năng chủ trì nghiên cứu, đề xuất các trung tâm nghiên cứu phát triển này. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính bố trí nguồn vốn đầu tư phát triển để xây dựng 3 Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp.
Đối với mục tiêu phát triển CNHT, Thủ tướng nhấn mạnh, đến năm 2020, Việt Nam có sản phẩm CNHT có khả năng canh tranh cao, đáp ứng được 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 11% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp; có khoảng 1.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam.
Đến năm 2030, sản phẩm CNHT đáp ứng được 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành công nghiệp; có khoảng 2.000 doanh nghiệp đủ năng lực cung ứng cho các doanh nghiệp lắp ráp và tập đoàn đa quốc gia trên lãnh thổ Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, đề xuất các ưu đãi, hỗ trợ về vốn, tín dụng để phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên phát triển, trong thời hạn từ 5 năm đến 10 năm.
Bộ Khoa học và Công nghệ xem xét điều chỉnh cơ chế tiếp cận Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia theo hướng thông thoáng và nhanh gọn, đơn giản hơn đối với doanh nghiệp CNHT.
Phát triển doanh nghiệp hỗ trợ phải lấy thị trường khu vực và thế giới làm mục tiêu phát triển để cạnh tranh, Thủ tướng giao các bộ liên quan trình Thủ tướng hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển CNHT Việt Nam, nhất là chính sách thuế, đất đai, tín dụng…
Sau Hội nghị này, với sự hướng dẫn của Bộ Công Thương, một số địa phương cần có chương trình hành động để phát triển CNHT.
3 giải pháp lớn
Thủ tướng nêu một số giải pháp lớn. Thứ nhất, phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển công nghiệp đất nước nói chung, đặc biệt chú trọng khởi nghiệp sáng tạo định hướng đầu tư vào CNHT. Bởi “không ai làm thay doanh nghiệp trong phát triển CNHT”. Doanh nghiệp Việt Nam phải có khát vọng gia nhập chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị.
Thứ hai là nhân lực công nghiệp, nhất là trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, kỷ nguyên số này. “Các địa phương, doanh nghiệp tính, các ngành, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội phải tính vấn đề này. Đào tạo theo nhu cầu là rất quan trọng”.
Thứ ba là khoa học công nghệ, doanh nghiệp công nghệ. Phải coi đây là khởi nghiệp sáng tạo để tạo mọi điều kiện cho sự phát triển CNHT ở địa phương. “Chúng ta nói có nhỏ mới có lớn, nhỏ phục vụ lớn, lớn tạo điều kiện cho nhỏ”.
“Hiện nay, thiếu đất quy hoạch bảo đảm hạ tầng, mặt bằng, môi trường để phát triển các ngành công nghiệp nói chung và đặc biệt là CNHT. Cho nên các đồng chí phải quy hoạch khu công nghiệp đủ tiêu chuẩn, bây giờ nhuộm may như thế thì địa phương nào cũng từ chối, sợ môi trường, anh phải quy hoạch riêng ra hay xử lý tiêu chuẩn chứ không có làm sao được”, Thủ tướng nói.
Thủ tướng đã giao Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền xử lý các kiến nghị của các doanh nghiệp về các vướng mắc trong thực hiện các quy định về thuế, phí, thủ tục hoàn thuế, khấu trừ thuế, hải quan. Nghiên cứu sửa đổi Nghị định 125 năm 2017, xem xét miễn thuế tiêu thụ đặc biệt cho tỷ lệ phần trăm linh kiện, phụ tùng sản xuất trong nước để khuyến khích CNHT phát triển và giảm giá xe cho người tiêu dùng.
Theo Bộ Công Thương, thực trạng chung của ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam hiện nay là quy mô và năng lực của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ còn nhiều hạn chế: Số lượng ít, năng lực sản xuất còn rất thấp, thiếu nguồn lực và công nghệ để nâng cao năng suất, nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu. Các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong nước chủ yếu vẫn là linh kiện và chi tiết đơn giản, với hàm lượng công nghệ trung bình và thấp, có giá trị nhỏ trong cơ cấu giá trị sản phẩm. Theo số liệu của Bộ Công Thương, số doanh nghiệp đang hoạt động trong công nghiệp hỗ trợ hiện chiếm gần 4,5% tổng số doanh nghiệp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; tạo việc làm cho hơn 550.000 lao động. Xác định vai trò của ngành này, những năm qua, Chính phủ và các bộ, ngành đã ban hành nhiều quy định nhằm thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ phát triển. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, cơ chế, chính sách cho lĩnh vực này vẫn cần hoàn thiện, vẫn còn khoảng cách từ chính sách đến thực tiễn. Chẳng hạn, chính sách thu hút các doanh nghiệp FDI chưa gắn với các ràng buộc về trách nhiệm phát triển hệ thống nhà cung ứng nội địa tại Việt Nam. |