Sử dụng rượu bia là nguyên nhân trực tiếp của hơn 30 loại bệnh không lây nhiễm và là nguyên nhân của gần 200 loại bệnh tật khác nhau, được xếp vào hàng thứ 3 trong số các nguyên nhân dẫn đến tử vong.
Đó là thông tin được đưa ra tại Hội thảo xây dựng chính sách về phòng, chống tác hại của rượu bia do Bộ Y tế phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam tổ chức.
PGS.TS Nguyễn Trường Sơn - Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết, mức độ tiêu thụ rượu bia ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng. Năm 2015, Việt Nam sản xuất 3,4 tỉ lít bia, 70 triệu lít rượu công nghiệp và khoảng 250 triệu lít rượu thủ công.
Đến năm 2017, chỉ tính riêng lượng tiêu thụ bia đã vượt qua con số 4 tỉ lít bia (tăng gần 6% so với 2016), đứng thứ 10 thế giới, thứ 3 trong châu Á (sau Trung Quốc và Nhật Bản), trong khi cách đây 10 năm, Việt Nam vẫn xếp thứ 8 châu Á.
Nếu chỉ tính riêng nhóm trưởng thành (từ trên 15 tuổi ở cả 2 giới), lượng cồn bình quân 1 người tiêu thụ mỗi năm tăng nhanh từ 3,8 lít giai đoạn 2003 - 2005 lên 4,7 lít năm 2009 - 2011 và 8,3 lít trong giai đoạn 2015 -2017, tương đương 217 lít bia hoặc gần 20 lít rượu mạnh 40 độ.
Dự báo, nếu không có các biện pháp can thiệp hiệu quả để kiểm soát, lượng cồn trung bình ở người trưởng thành tại Việt Nam đến năm 2020 sẽ tăng lên 9,9 lít và tiếp tục tăng lên 11,4 lít vào năm 2025. Trong khi đó suốt 10 năm qua, nồng độ cồn/đầu người trên toàn thế giới vẫn giữ nguyên 6,4 lít.
Mỗi người Việt trưởng thành tiêu thụ đến 470 chai bia một năm
Thứ trưởng Bộ Y tế nhấn mạnh, sử dụng rượu, bia là nguyên nhân trực tiếp của hơn 30 loại bệnh không lây nhiễm và là nguyên nhân của gần 200 loại bệnh tật khác nhau và được xếp vào hàng thứ ba trong số các nguyên nhân dẫn đến tử vong sớm và tàn tật trên thế giới.
Sử dụng rượu bia còn tác động nghiêm trọng đến lĩnh vực kinh tế - xã hội như: Bạo lực gia đình, mất trật tự an toàn xã hội, tội phạm, đói nghèo và gánh nặng về kinh tế đối với cá nhân, gia đình và toàn xã hội do liên quan đến các phí tổn về chăm sóc sức khỏe giảm hoặc mất năng suất lao động và giải quyết các hậu quả xã hội khác.
Dù vậy, hệ thống pháp luật về phòng chống tác hại của rượu, bia của Việt Nam còn nhiều khoảng trống. Đến nay, mới có Nghị định số 105/2017/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý sản xuất, kinh doanh rượu và Quyết định số 244/QĐ-TTg ngày 12/4/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020.
“Tuy nhiên, đây mới là chính sách mang tính định hướng và cần được thể chế hóa thành các quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao”, ông Sơn bày tỏ.
TS Kidong Park - Trưởng Đại diện của Tổ chức Y tế thế giới tại Việt Nam cũng bày tỏ quan ngại về tình trạng sử dụng bia rượu của người Việt. 44% người uống rượu bia ở Việt Nam uống quá nhiều; 48% người uống rượu bia trưởng thành là nam giới và tham gia lái xe… Việc sử dụng rượu bia ở Việt Nam liên quan tới tai nạn và tử vong.
Điều tra nguy cơ mắc bệnh lây nhiễm năm 2015 cho thấy, 44% người uống rượu bia ở Việt Nam uống quá độ, đây là hình thức uống rượu nguy hiểm. Một người Việt trưởng thành tiêu thụ 8,3 lít cồn (tương đương 470 chai bia) trong một năm. 48% thanh niên từ 14 - 17 tuổi cũng uống rượu bia.
TS Kidong Park - Trưởng Đại diện Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt Nam
Theo TS Kidong Park, vẫn còn có sự nhầm lẫn khi cho rằng người uống bia ít nguy hại hơn người uống rượu nhẹ và rượu mạnh. Bởi vì, các tác hại của rượu, bia không phụ thuộc vào loại hình đồ uống mà phụ thuộc vào tổng khối lượng ethanol và hình thức uống. Cứ 330ml bia hơi với độ cồn 4% là có 10 gram cồn. Số lượng cồn này cũng tương tự uống 1 ly rượu vang 13,5 độ và tương tự khi ta uống một chén rượu mạnh (30ml).
TS Kidong Park cũng đưa ra những khuyến nghị của WHO trong việc phòng chống các tác hại rượu bia như: cần phải đưa ra những quy định cho việc tiếp cận quảng cáo về rượu bia. Cùng với đó người dân, những người chọn không uống rượu bia cần được bảo vệ trước việc tiếp cận các quảng cáo về rượu bia. Bên cạnh đó cần tăng thuế về đồ uống có còn, hạn chế quảng cáo đồ uống và thực thi hạn chế giờ bán rượu bia đặc biệt cấm uống rượu bia khi tham gia giao thông.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia đã cho thấy tầm quan trọng và sự hiệu quả của việc xây dựng và thực thi các chính sách kiểm soát sự sẵn có của đồ uống có cồn (quy định điểm bán, giờ bán và cấp phép), chính sách về thuế và chính sách kiểm soát quảng cáo, khuyến mại rượu, bia và đồ uống có cồn khác.
Tại hội thảo, các đại biểu cũng đã thảo luận và thống nhất các hoạt động để triển khai thực hiện Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn đến năm 2020.