Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị yêu cầu: “Nghiên cứu, xác định rõ nội hàm quyền tư pháp; xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các hoạt động tư pháp”.
Để có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc cụ thể hoá quy định của Hiến pháp 2013 về quyền tư pháp, thời gian qua TANDTC đã tổ chức nhiều buổi toạ đàm về “Quyền tư pháp và việc cụ thể hoá quyền tư pháp trong Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)”.
Đồng tình với đề xuất của TANDTC về nội hàm quyền tư pháp
Các cuộc tọa đàm do đồng chí Trương Hòa Bình, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC chủ trì, với sự tham gia của nhiều nhà khoa học có uy tín cao và các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực pháp luật đang công tác tại các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội, các trường đại học và các viện nghiên cứu trên toàn quốc. Tại những cuộc tọa đàm, lãnh đạo TANDTC trình bày khái quát về những định hướng của Đảng về cải cách tư pháp; quy định của Hiến pháp năm 2013 về nguyên tắc tổ chức quyền lực của Nhà nước ta, đặc biệt là những định hướng về đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND, về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND.
Chánh án TANDTC Trương Hòa Bình chủ trì buổi tọa đàm góp ý vào Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi)
Thông qua các cuộc tọa đàm, trong quá trình thảo luận, các ý kiến đều nhất trí cao và cho rằng “TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” được quy định trong Hiến pháp năm 2013 là một trong những nội dung quan trọng khẳng định vị thế của hệ thống TAND, là bước tiến mới và là thành công của Hiến pháp mới. Ngoài ra, theo quy định của Hiến pháp 2013 thì “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Chính vì vậy, các nội dung này cần được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức TAND (sửa đổi), các luật tố tụng cũng như các luật khác để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của Tòa án, bảo đảm cho Tòa án thực hiện có hiệu quả quyền tư pháp.
Bên cạnh đó, để Tòa án thực hiện nhiệm vụ hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử mà còn là quyền kiểm tra, đánh giá và kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng do các cơ quan tư pháp thực hiện trong suốt quá trình tố tụng và thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Có như vậy thì việc giải quyết, xử lý các vụ án mới bảo đảm đúng pháp luật, tránh oan, sai và bỏ lọt tội phạm. Đây có thể được coi là cơ chế để Tòa án tham gia kiểm soát việc thực hiện các hoạt động tư pháp. Hơn nữa, trước yêu cầu bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi mọi biện pháp ngăn chặn hoặc cưỡng chế của Nhà nước nếu hạn chế quyền con người, quyền công dân thì phải được Tòa án xem xét, áp dụng hoặc kiểm tra để thay đổi, hủy bỏ trong trường hợp việc áp dụng các biện pháp đó là trái pháp luật hoặc không cần thiết.
PGS. TS Nguyễn Tất Viễn, Ủy viên chuyên trách, Thường trực Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương
Về các nội dung cụ thể của quyền tư pháp được quy định tại khoản 2 Điều 2 của Dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi), TANDTC đã thể hiện nội hàm quyền tư pháp phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phù hợp với công cuộc cải cách tư pháp và quá trình phát triển của xã hội. Do đó, hầu hết các ý kiến đều đồng tình với đề xuất của TANDTC về nội hàm quyền tư pháp.
Quan điểm của các nhà khoa học, chuyên gia pháp luật về quyền tư pháp
Theo TS. Nguyễn Đình Quyền, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội thì quyền tư pháp trước hết là quyền xét xử; tuy nhiên, quyền xét xử chỉ là một nội dung của quyền tư pháp, nhưng quyền xét xử là đỉnh cao nhất, hội tụ nhất của quyền tư pháp. Còn vấn đề kiểm soát, ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực trong tố tụng hình sự, TS. Nguyễn Đình Quyền cho rằng, trong tố tụng hình sự hiện nay, quyền tư pháp đang bị cắt khúc (nếu vụ việc đang ở giai đoạn điều tra, truy tố thì Tòa án không có quyền gì; chưa có cơ chế để Tòa án kiểm soát các hoạt động tố tụng do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện). Vì vậy, khi có quyết định khởi tố vụ án, áp dụng các biện pháp bắt, khám xét, tạm giữ, tạm giam... thì Tòa án phải có thẩm quyền kiểm soát rồi. Có vậy, Tòa án mới thực hiện tốt nhiệm vụ hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật.
Ông Lê Thúc Anh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Để Tòa án thực hiện tốt nhiệm vụ hiến định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, GS. TS Võ Khánh Vinh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam kiêm Giám đốc Học viện khoa học xã hội bày tỏ quan điểm: Quyền tư pháp không chỉ là quyền xét xử mà còn bao gồm các quyền năng khác, được giao cho Tòa án thực hiện. Tòa án phải có quyền đánh giá, kết luận về tính hợp pháp và có căn cứ của các quyết định, hành vi tố tụng; xem xét, áp dụng hoặc thay đổi các biện pháp ngăn chặn hoặc cưỡng chế của Nhà nước; quyết định, giám sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án; tham gia kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp cũng xác định “xét xử là trọng tâm” chứ không xác định “xét xử là duy nhất”.
PGS.TS Nguyễn Như Phát, Viện trưởng Viện Nhà nước và pháp luật cho biết: Ở các nước trên thế giới, bên cạnh việc thực hiện chức năng xét xử, Thẩm phán còn có chức năng phát triển pháp luật, giải thích pháp luật. Do đó, nhiệm vụ bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật mà trong đó, nhiệm vụ ban hành và phát triển án lệ cũng thuộc nội hàm quyền tư pháp và đây là phương thức để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật hiệu quả nhất. Các biểu hiện trong án lệ là những tiêu chuẩn về công bằng, công lý trong từng thời kỳ phát triển, trong đó thể hiện cả niềm tin nội tâm, đánh giá và nhận định của Thẩm phán, của Tòa án. Việc ban hành và áp dụng án lệ sẽ góp phần tích cực vào việc bảo vệ công bằng, công lý; tạo cơ chế để giải quyết những vấn đề mà luật chưa điều chỉnh hoặc quy định chưa rõ, còn có cách hiểu khác nhau. Đây cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới. Hiến pháp đã giao cho TAND nhiệm vụ bảo vệ công lý thì khi người dân đi tìm công lý phải được Tòa án xem xét, giải quyết trên cơ sở pháp luật và án lệ. Có như vậy mới khắc phục được hạn chế hiện nay là có tình trạng người dân đến Tòa án tìm công lý nhưng không được giải quyết do không có căn cứ pháp luật bởi yêu cầu đó chưa được pháp luật quy định.
PGS.TS Nguyễn Như Phát, Viện trưởng Viện Nhà nước và pháp luật
Về nhiệm vụ, quyền hạn trong xét xử, PGS. TS Nguyễn Tất Viễn, Ủy viên chuyên trách, Thường trực Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương đề xuất, cần mở rộng phạm vi xét xử của Tòa án, cần giao cho Tòa án quyền được phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ/cơ quan ngang Bộ ban hành; phán quyết về tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản hành chính. Tòa án thông qua việc xét xử các vụ án cụ thể, nếu phát hiện thì được quyền kết luận về các văn bản vi hiến và kiến nghị Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
Ông Lê Thúc Anh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho rằng: Quyền tư pháp trong tố tụng phải được thể hiện ở tất cả các giai đoạn: Trước, trong và sau xét xử. Tòa án là cơ quan bảo vệ công lý, cho nên những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân phải do Tòa án quyết định. Bên cạnh nhiệm vụ xét xử, thực tiễn hiện nay, Tòa án cũng đang được giao giải quyết các việc khác (như giải quyết một số việc dân sự; xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; quyết định áp dụng biện pháp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm các khiếu nại hàng hải hoặc thi hành án dân sự...). Các nhiệm vụ, quyền hạn này cũng cần được thể hiện rõ hơn trong nội hàm quyền tư pháp. Một số ý kiến đề nghị, theo quy định của Hiến pháp thì “Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân”, do đó cần tiếp tục cân nhắc để cụ thể hóa trong Luật này, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án thực hiện nhiệm vụ hiến định.
Ông, Trần Văn Tú, nguyên Phó Chánh án TANDTC
Ngoài các ý kiến nêu trên, một số ý kiến của các chuyên gia đề nghị cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng cơ chế kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó cần tiếp tục mở rộng thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính. Bên cạnh đó, cũng cần cân nhắc việc xem xét, giải quyết các khiếu kiện đối với kết luận của Kiểm toán Nhà nước, quyết định của Hội đồng bầu cử quốc gia (khi được thành lập) có thuộc nội hàm quyền tư pháp hay không. Ngoài ra, có ý kiến đề nghị thể hiện cụ thể hơn nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử; mối quan hệ giữa Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư vì đây là một trong những nội dung quan trọng để Tòa án thực hiện tốt quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân…
TS. Nguyễn Đình Quyền, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội
Để TAND thực hiện tốt quyền tư pháp, nguyên Phó Chánh án TANDTC Trần Văn Tú đề nghị bổ sung quyền bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử vào nội hàm của quyền tư pháp vì đây là quyền hiến định được quy định tại khoản 3 Điều 104 của Hiến pháp năm 2013. Mặt khác, cần bổ sung quyền của Tòa án trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán; nâng cao tiêu chuẩn đối với Thẩm phán; đổi mới quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán; kéo dài nhiệm kỳ Thẩm phán; có chế độ, chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với Thẩm phán bởi họ là những người trực tiếp thực hiện quyền tư pháp vì đây là quyền phái sinh của quyền xét xử.
GS. TS Võ Khánh Vinh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam kiêm Giám đốc Học viện khoa học xã hội
Hơn nữa, Tòa án muốn thực hiện tốt quyền tư pháp thì cần có những thiết chế bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Theo đó, cần quy định bổ sung các chế tài hình sự, hành chính để áp dụng đối với những trường hợp can thiệp vào việc xét xử.