Sáng 23/6, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Đấu thầu (sửa đổi) với tỷ lệ 93,12%.
Đối tượng điều chỉnh của Luật Đấu thầu
Trước khi biểu quyết thông qua, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi).
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết: Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua hôm nay gồm 9 Chương, 96 Điều với nhiều nội dung quan trọng.
Về phạm vi áp dụng Luật Đấu thầu đối với doanh nghiệp nhà nước và dự án sử dụng vốn nhà nước, tại Kỳ họp thứ 5, UBTVQH đã báo cáo Quốc hội 02 phương án quy định trong luật về nội dung này.
Phương án 1: Quy định đối tượng áp dụng chỉ bao gồm dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Phương án 2: Quy định đối tượng áp dụng bao gồm dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có trên 50% vốn thuộc sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước.
Qua tổng hợp ý kiến ĐBQH thảo luận tại hội trường, một số ý kiến đề nghị chọn phương án 2 để không thu hẹp quá mức đối tượng đấu thầu, quản lý chặt chẽ vốn đầu tư của nhà nước vào doanh nghiệp nhà nước và vốn của doanh nghiệp nhà nước đầu tư, góp vốn vào các doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp nhà nước nắm quyền chi phối. Một số ý kiến đề nghị chọn phương án 1 để tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh...
UBTVQH tiếp thu theo hướng nhằm đảm bảo hài hòa giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và quyền tự chủ của doanh nghiệp, không thu hẹp hoặc mở rộng đối tượng quá mức; một mặt, bảo đảm việc đấu thầu mang lại lợi ích kinh tế cho bên mời thầu, mặt khác, bảo đảm xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, cạnh tranh, bình đẳng, công khai, minh bạch.
Vì vậy, UBTVQH báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định phương án chỉnh lý: Phạm vi điều chỉnh của Luật Đấu thầu bao gồm: Các gói thầu thuộc dự án đầu tư của doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp và doanh nghiệp do doanh nghiệp nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ như thể hiện tại điểm a khoản 2 Điều 2 của dự thảo Luật. Đây là nội dung đã được UBTVQH hội và Chính phủ xem xét kỹ lưỡng, thống nhất trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Một loạt quy định quan trọng trong lĩnh vực y tế
Về lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt, một đại biểu đề nghị không quy định về lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp này.
Qua xem xét, UBTVQH nhận thấy, Luật Đất đai hiện hành và dự thảo Luật Đất đai đang sửa đổi không quy định việc đấu thầu để lựa chọn nhà đầu tư áp dụng đối với các dự án đầu tư có liên quan đến an ninh, quốc phòng, vì vậy, việc quy định về nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt tại dự thảo Luật Đấu thầu là chưa thống nhất với dự thảo của Luật Đất đai; dự thảo Luật hiện còn nhiều yếu tố không bảo đảm tính minh bạch, chưa rõ ràng về quy trình, thủ tục, tiềm ẩn nguy cơ có thể bị lợi dụng chính sách, đặc biệt đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất để kinh doanh thương mại; hơn nữa, cho đến nay chưa có tiền lệ áp dụng cơ chế này.
Vì vậy, UBTVQH đề nghị bỏ quy định về lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt tại khoản 3 Điều 34 của dự thảo Luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5.
Về đấu thầu tập trung, mua thuốc, hóa chất, thiết bị y tế, có ý kiến đề nghị bỏ quy định: “Trường hợp mua thuốc hiếm, thuốc cần mua với số lượng ít có thể áp dụng hình thức mua sắm tập trung để bảo đảm có đủ thuốc phục vụ nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh”.
UBTVQH cho rằng, theo thông lệ quốc tế, mua sắm tập trung thường áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ cần mua sắm với số lượng lớn, chủng loại tương tự ở một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị. Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù của Việt Nam, đối với các trường hợp thuốc hiếm, thuốc cần mua với số lượng ít ở từng địa phương, đơn vị nếu tổ chức đấu thầu riêng biệt sẽ khó lựa chọn được nhà cung cấp (do số lượng ít, không hấp dẫn các nhà cung cấp).
Do vậy, theo đề nghị của ĐBQH, dự thảo Luật đã bổ sung trường hợp mua sắm tập trung đối với thuốc hiếm, thuốc cần mua với số lượng ít có nhu cầu sử dụng ở nhiều địa phương, bệnh viện để tạo thành gói thầu mua sắm với số lượng lớn nhằm bảo đảm tính khả thi trong việc tổ chức đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp. Do đó, đề nghị giữ như dự thảo Luật.
Tại điểm a khoản 2 có ý kiến đề nghị bổ sung về quy định cụ thể trường hợp Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia.
Hiện điểm a khoản 2 Điều 53 dự thảo Luật đã có quy định giao Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc; danh mục mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thiết bị y tế, vật tư xét nghiệm trong trường hợp cần thiết. Theo đó, căn cứ tình hình và yêu cầu thực tế trong từng giai đoạn, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành, điều chỉnh danh mục áp dụng mua sắm tập trung cấp quốc gia đối với thuốc và thiết bị y tế, vật tư xét nghiệm cho phù hợp. Vì vậy, xin được giữ quy định như dự thảo Luật.
Về lựa chọn nhà thầu cung cấp hóa chất, thiết bị y tế (Điều 55), Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách cho biết, UBTVQH nội dung điều luật này đã bao quát các trường hợp mua hóa chất, thiết bị y tế, trong đó đã quy định rõ việc chuyển giao quyền quản lý sử dụng/chuyển giao quyền sở hữu trong từng trường hợp mua sắm cụ thể.
Đây là một mô hình mua sắm trọn gói bao gồm từ hóa chất, vật tư xét nghiệm, thiết bị y tế, bảo hành, bảo dưỡng… cũng như quyền sử dụng thiết bị y tế trong một thời gian nhất định. Trên cơ sở quy định nêu trên tại khoản 4 Điều 55 giao Chính phủ quy định chi tiết, cụ thể để thực hiện.
Đối với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 dự thảo Luật thực chất là hình thức của mô hình máy đặt – máy mượn, mà hiện nay các bệnh viện đang áp dụng và bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Tuy nhiên, để bảo đảm không làm gián đoạn việc cung cấp dịch vụ kỹ thuật, ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh cho người dân, đồng thời bảo đảm để các bệnh viện có thời gian chuyển đổi phù hợp với cơ chế giá khám, chữa bệnh được tính đúng, tính đủ theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, dự thảo Luật quy định chỉ áp dụng quy định này trong thời gian không quá 5 năm kể từ ngày Luật Đấu thầu (sửa đổi) có hiệu lực thi hành.
UBTVQH cho rằng, thời hạn áp dụng 5 năm là phù hợp với thực tiễn, đủ đảm bảo thời gian để chuyển sang hình thức khác công khai, minh bạch hơn. Nội dung này đã được Bộ Y tế, các bệnh viện lớn đồng thuận và đảm bảo tính khả thi. Do vậy đề nghị giữ như dự thảo Luật là 5 năm.