Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 2015

Phương Nam| 23/05/2019 10:31
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Bộ luật hình sự năm 2015 đã có những quy định sửa đổi, bổ sung các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự.

BLHS 2015 quy định 07 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (TNHS) bao gồm:Sự kiện bất ngờ; Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; Phòng vệ chính đáng; Tình thế cấp thiết; Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên.

Sự kiện bất ngờ: Điều 20 BLHS năm 2015 khẳng định: Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu TNHS. So với BLHS năm 1999, quy định về sự kiện bất ngờ trong BLHS năm 2015 không có sự thay đổi về bản chất pháp lý, mà chỉ là sự sửa đổi, bổ sung về mặt kỹ thuật lập pháp theo hướng quy định trực tiếp một người thực hiện hành vi được coi là sự kiện bất ngờ và hậu quả pháp lý của nó.

Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự: Điều 21 BLHS năm 2015 quy định, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu TNHS. So với BLHS năm 1999, quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong BLHS năm 2015 có sự thay đổi về mặt kỹ thuật theo hướng bỏ quy định về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh tại điều luật mà quy định thống nhất về việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh tại Điều 49 BLHS năm 2015.

Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 2015

Ảnh minh họa

Phòng vệ chính đáng: Khoản 1 điều 22 BLHS 2015 quy định: Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng khi thoả mãn các dấu hiệu sau: Có hành vi tấn công đang hiện hữu, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tổ chức, quyền và lợi ích chính đánh của người phòng vệ hoặc của người khác (cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng). Hành vi phòng vệ gây thiệt hại cho người xâm phạm là cần thiết (nội dung và phạm vi của phòng vệ chính đáng);

Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS theo quy định của Bộ luật này.

Tình thế cấp thiết: Khoản 1 điều 23 BLHS 2015 quy định, tình thế cấp thiết là một trong những trường hợp loại trừ TNHS, đó là tình thế của người đứng trước sự đe dọa đến một lợi ích được pháp luật bảo vệ, và để bảo vệ lợi ích này, người đó không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại cho một lợi ích khác được pháp luật bảo vệ. Để được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết và không phải chịu TNHS thì phải có đầy đủ các điều kiện sau đây:  Phải có sự đe dọa hiện hữu và thực tế xâm phạm đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ (tức là lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của bản thân người thực hiện hành vi hay của người khác); Hành vi gây thiệt hại là biện pháp duy nhất để khắc phục sự nguy hiểm; Thiệt hại trong tình thế cấp thiết gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết là tình trạng một người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là gây thiệt hại bằng hoặc lớn hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Người có hành vi gây thiệt hại do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì cũng phải chịu TNHS.   

Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội: Khoản 1 Điều 24 BLHS 2015 quy đinh, hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.

Để được coi là gây thiệt hại trong bắt giữ người phạm tội là một trường hợp loại trừ TNHS, hành vi bắt giữ phải thỏa măn các điều kiện sau: Hành vi bắt giữ phải thuộc về các chủ thể có thẩm quyền bắt giữ người phạm tội; Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là biện pháp cuối cùng, không còn cách nào khác để bắt giữ người phạm tội; Hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ phải là cần thiết.

Khoản 2 Điều 24 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự”. 

Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ: Điều 25 BLHS 2015 quy định, rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS lần đầu tiên được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi của một người đã gây thiệt hại khi tiến hành, thực hiện việc nghiên cứu, thủ nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa. Hành vi gây thiệt trong trường hợp nói trên không phải là tội phạm.

Để coi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trường hợp loại trừ TNHS, hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải thỏa mãn các điều kiện sau:  Hành vi gây thiệt hại trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm mục đích đem lại lợi ích cho xã hội;  Lĩnh vực của hành vi gây thiệt hại chỉ giới hạn trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Người gây ra thiệt hại đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa.

Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên: Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc cấp trên là một trường hợp loại trừ TNHS chính thức được quy định trong BLHS năm 2015, đó là hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó. Hành vi gây thiệt hại trong trường hợp này không phải chịu TNHS.

Việc thi hành mệnh lệnh này không thuộc trường hợp phạm tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 421), tội chống loài người do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 422), tội phạm chiến tranh do thi hành mệnh lệnh của cấp trên (khoản 2 Điều 423). 

Đọc tiếp
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự 2015