Cũng như nhiều dân tộc khác, người Mường đang phải đối mặt với nguy cơ mai một nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống. Hiện có rất nhiều nghệ nhân, nghệ sỹ của dân tộc này cố gắng gìn giữ, trao truyền để các nét văn hóa của tổ tiên không bị lãng phai đi.
Cả đời đắm đuối với cồng chiêng
Suốt mấy chục năm nay, ông Bùi Tiến Xô (SN 1953, ở xóm 168, Vĩnh Tiến, Kim Bôi, Hòa Bình) lặn lội khắp các hang cùng, ngõ hẻm ở đất Hòa Bình để sưu tập cồng chiêng. Và cũng nhờ những người như ông nên những nét văn hóa truyền thống của người Mường vẫn đang hiện hữu.
Ông Xô kể, ông sinh ra trong một gia đình có 7 người con ở vùng đất đá Lạc Sơn. Từ nhỏ, ông đã bị mê hoặc bởi tiếng chiêng, tiếng cồng trong những lần theo mẹ, theo cha xem hội.
Cũng chính vì cái niềm đam mê cháy bỏng đó, cộng với chút ít khả năng thẩm âm thiên bẩm, ông Xô dần trở thành một trong số ít những người trong vùng có khả năng nghe và đo được thang âm của cồng chiêng.
Vào những năm 70 của thế kỷ trước, ông Xô theo gia đình về Kim Bôi lập nghiệp. Ban đầu, ông làm nghề thợ đá, thợ khoan, thợ cơ khí, đến năm 1975, ông lấy vợ. Vất vả, lam lũ mãi rồi ông cũng xin được vào làm công nhân Xí nghiệp 216. Từ đó ông bắt đầu “rày đây, mai đó” trên những công trường bụi bặm, ngổn ngang đá và dầu mỡ.
Ngay ở những nơi ồn ã, xô bồ như thế, ngọn lửa đam mê âm nhạc dân tộc vẫn được ông Xô vẫn không hề nguôi tắt. Mỗi khi việc công trường rảnh rỗi, ông lại mang đàn ra chơi, mang sáo ra thổi, vừa để giải trí cho anh em, vừa để thỏa cái ước muốn được chơi nhạc chảy rần rật trong người.
“Tất cả các loại nhạc cụ dân tộc tôi đều chơi được, nhưng chỉ có âm thanh mộc mạc nhưng trầm hùng của cồng chiêng làm tôi mê đắm. Hình ảnh những chàng trai, cô gái Mường vung tay như “múa” trên núm chiêng, tạo nên trùng lớp âm thanh vang vọng núi rừng, có nhắm mắt lại tôi cũng vẫn thấy rõ mồn một”, ông Xô chia sẻ.
Từ nhiều năm nay, ông Xô có đam mê sưu tập cồng chiêng. Dù chưa đến mức “tán gia, bại sản”, nhưng có nói ông nghèo vì cồng chiêng cũng không sai. Bởi cứ dành dụm được ít tiền bạc, hoặc nghe nói người này ở Cao Phong, người kia ở Tân Lạc, muốn bán chiêng, bán cồng ông lại lần mò tìm tới. Tất cả tiền bạc làm ra, sức khỏe ông có, đều dành cho những cuộc băng rừng, vượt núi cóp nhặt cồng chiêng, cóp nhặt tinh hoa văn hóa dân tộc Mường.
Có những chiếc chiêng, khi biết chủ nhân của nó muốn bán, ông đã lặn lội hơn 100km đường rừng trên chiếc xe đạp phượng hoàng không có lốp, phải quấn dây chun vào vành, lên tận huyện Đà Bắc để vận động người ta đừng bán. Thuyết phục không thành, ông đành quay về Kim Bôi vay mượn tiền để mua lại.
Ông Xô bảo, trong số 40-50 chiếc chiêng treo kín hai bên vách nứa, hơn một nửa là chiêng cổ niên đại 400 – 600 năm, còn lại chiêng kim cũng có niên đại ít nhất 200 – 250 năm. Chiêng cổ hình thức bề ngoài giống như da cóc, vảy tê tê, được đúc thủ công, rồi gò chỉnh âm qua bàn tay những người thợ tài hoa bậc nhất xứ Mường. Còn chiêng kim được đúc bằng khuôn đất từ thiếc, thau, bạc trộn lẫn. Dùi cũng phải làm thật khéo, to nhỏ phải tương thích với chiêng, và phải được bọc bằng lụa đỏ.
“Ngày trước, người ta thường dùng da thú bọc dùi, để khi đánh vào núm chiêng không bị méo tiếng, không bị vỡ chiêng. Nhưng giờ đây, thú rừng săn bắn hết rồi, không có da, đành lấy lụa bọc. Khi đánh chiêng, quan trọng là không được đánh mạnh, không được dùng sức, phải đánh nhẹ nhàng, đánh từ từ để gọi hồn chiêng…”, ông Xô tiếp tục say xưa.
Ngoài việc lặn lội tìm chiêng, ông Xô còn dốc sức vào việc vận động những chàng trai, cô gái trong thôn bản tham gia tập luyện cồng chiêng, có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Ông truyền dạy cho họ kỹ thuật đánh, cách đo âm vực cồng chiêng bằng sải tay, và truyền cả cái giá trị tinh thần vô giá của những âm thanh ấy đối với đời sống văn hóa dân tộc Mường.
Bởi, điều người đàn ông Mường này trăn trở, day dứt nhất đó là lo sợ khi những người thế hệ ông nằm xuống, con cháu không mấy người biết nắm giữ tiếng cồng chiêng. Và, liệu cái kho tàng nhạc cụ đồ sộ mà ông dành cả đời tìm kiếm có còn ai lưu giữ thay ông?
Trăn trở thế, nên trong ánh mắt ông Xô thoáng đượm buồn. Ông tiếc. Tiếc đời con người ngắn chẳng tày gang, tiếc cho văn hóa Mường đang tan chảy hàng ngày. Ông bảo, ông đang làm một cuộc chạy đua với thời gian, chạy đua với tình trạng xâm thực văn hóa “xập xình” trong lớp trẻ. Ông chạy đua, để giữ lại cái hồn Mường.
“Báu vật sống” của bản Mường
Đối với người Mường ở xã Lâm Sơn nói riêng và huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình nói chung, nghệ nhân Nguyễn Thị Hình (SN 1944, người dân tộc Mường) chả khác gì “báu vật sống” của bản làng. Bởi không chỉ là một nghệ nhân chơi chiêng lão luyện, bà còn có khả năng chế tác và chơi được nhiều loại nhạc cụ khác nhau của dân tộc Mường.
Được sinh ra và lớn lên giữa không gian văn hóa đậm đặc của người Mường, từ nhỏ, bà Hình đã nổi tiếng khắp vùng về đam mê âm nhạc. Bà ham đàn, ham sáo và ham tất thảy những thanh âm trầm bổng của cồng chiêng.
“Lúc nhỏ, cứ thấy buôn làng nào mở hội, có cồng chiêng là tôi lại theo chúng bạn đi xem. Nhiều khi phải trốn bố, trốn mẹ đi xem ấy chứ. Toàn đi bộ thôi. Có khi chân mỏi nhừ, bị gai rồi đá cào rách toạc cả máu mà vẫn đi. Không chịu quay về đâu. Rồi cứ nghe nhiều, nhìn các bậc cha chú, các bậc đàn anh chơi nhiều thì thuộc thôi, chứ lúc đó mình bé quá, cũng không ai dạy hết. Lớn lên một chút thì mới được các anh, các chú, các cụ trong làng dạy. Mình học chữ thì lâu, chứ học chiêng thì nhanh lắm!”, bà Hình kể.
Khi đến tuổi 17-18, bà Hình đã có thể chơi được hầu hết các bài chiêng cổ của dân tộc và vinh dự được tham gia vào đội chiêng của bản. Cũng từ đó, bà được thỏa niềm đam mê của mình với cồng chiêng. Cứ mỗi khi bản làng sắp sửa có hội, già cùng với mọi người trong đội lại tụ họp để cùng nhau tập luyện. Nhiều khi xã bên, bản bên, thậm chí là huyện bên, tỉnh bên kỷ niệm dịp trọng đại nào đấy mời, bà cùng anh em lại “mang chiêng đi đánh xứ người”.
“Vào mùa lễ hội, tôi gần như không mấy khi ở nhà. Không bản này thì làng khác mời. Đi cho vui thôi. Vừa có điều kiện giao lưu, kết thêm bạn bè, vừa học được những “ngón nghề” của những nghệ nhân đi trước. Bởi kiến thức về cồng chiêng nó mênh mông lắm. Mình biết chơi chiêng chưa đủ, phải biết chỉnh chiêng, gìn giữ, bảo quản cồng chiêng không để hư hỏng nữa chứ? Những cái đó mình đều phải học. Học hết người này đến người khác, ai có gì hay thì mình học”, bà Hình tâm sự.
Và cũng chính vì cái sự “ham học” ấy mà đến giờ nghệ nhân Nguyễn Thị Hình là một trong số rất hiếm người Mường ở xã Lâm Sơn nói riêng và huyện Lương Sơn nói riêng thuộc và chơi được nhiều bản chiêng cổ của dân tộc mình.
Ngoài cồng chiêng, Nghệ nhân Nguyễn Thị Hình còn là một trong số ít những người am hiểu về Mo Mường – một loại hình tín ngưỡng dân gian được tạo nên bởi ba thành tố chính: Môi trường diễn xướng, lời Mo và nghệ nhân Mo, hay còn gọi là thầy mo.
Với quyết tâm không thể để cho di sản văn hoá quý báu của dân tộc bị lãng phai đi, trong nhiều năm qua, bà Hình đã kiên trì, bền bỉ đi khắp các xóm bản, đến từng nhà, vận động người dân về ý nghĩa của việc giữ gìn bản sắc truyền thống. Bà giảng giải, nêu bật giá trị của Mo Mường và các loại nhạc cụ, đặc biệt là cồng chiêng trong mạch nguồn văn hoá của người Mường.
Không chỉ tuyên truyền, vận động, bà Hình còn nhiệt tình tham gia các lớp truyền dạy cách đánh cồng chiêng cho các thế hệ trẻ trong làng, trong xã, trong vùng. Học trò của già nhiều lắm, tuổi từ thiếu niên cho đến trung niên.
Ghi nhận những đóng góp to lớn đó, năm 2022, Chủ tịch nước đã ký quyết định phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú cho bà Nguyễn Thị Hình. Đó vừa là niềm tự hào của cá nhân già, vừa là niềm tự hào của cộng đồng người Mường ở Lâm Sơn. Đồng thời, danh hiệu đó cũng là động lực để bà tiếp tục cống hiến cho cộng đồng, trong cuộc “chạy đua” với thời gian để níu giữ những báu vật văn hóa mang tính tộc người.
Bà Nguyễn Thị Tiến, Phó Trưởng phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lương Sơn, chia sẻ: “Việc khơi nguồn, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc của người Mường nói riêng và các dân tộc thiểu số khác là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Bởi, nó không chỉ lưu giữ được những giá trị truyền thống, tránh được nguy cơ thất truyền, mà điều quan trọng hơn nữa là những giá trị ấy sẽ được neo giữ trong những tâm hồn lớp trẻ, để mai này song hành cùng họ đi đến tương lai. Thế nên, đóng góp của những nghệ nhân gạo cội như bà Nguyễn Thị Hình là vô cùng to lớn, bởi họ chính là những người “giữ lửa” cho văn hóa Mường”.
Cũng theo bà Tiến, mấy năm gần đây, Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Lương Sơn đã triển khai thực hiện nhiều biện pháp nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Mường, như tổ chức lớp tập huấn kỹ năng trình tấu chiêng Mường; lớp tập huấn phổ biến, hướng dẫn các làn điệu dân ca, điệu múa dân tộc Mường; xây dựng Kế hoạch về bảo tồn và phát huy giá trị các Di sản văn hóa phi vật thể Mo Mường, trang phục dân tộc Mường, tiếng nói, chữ viết Mường…
Hy vọng rằng, với sự vào cuộc kịp thời, khẩn trương của các ngành các cấp, nhất là ngành văn hóa, cùng với sự tận tâm, tận lực của các nghệ nhân như ông Xô, bà Hình và nhiều nghệ nhân khác nữa thì cồng chiêng hay các loại hình nghệ thuật truyền thống của người Mường sẽ không bị lãng phai.