Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã điều chỉnh một cách toàn diện về nguyên tắc tranh tụng. Nguyên tắc này đã tạo ra cơ chế hoàn chỉnh bảo đảm cho các bên thực hiện tranh tụng có hiệu quả, góp phần loại bỏ tình trạng, oan sai, đảm bảo quyền con người.
Bình đẳng trước Tòa án
Từ năm 2002, thuật ngữ “Tranh tụng” được sử dụng trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) vẫn chưa ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng hình sự.
Tranh tụng chỉ được thực hiện trong quá trình xét xử tại Tòa án giữa Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng nên kết quả, chất lượng tranh tụng chưa cao. Trong một số vụ án việc giải quyết phụ thuộc chủ yếu vào tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, dẫn đến việc giải quyết chưa chính xác, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.
Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trên, tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Trên nền tảng nguyên tắc hiến định, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS năm 2015) đã bổ sung nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Đây là quy định mới, căn cứ pháp lý quan trọng để đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo hiến định, thể hiện cụ thể ở các nội dung sau:
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án”.
Như vậy có thể thấy BLTTHS năm 2015 đã quy định rõ mối quan hệ, vị trí giữa những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án là bình đẳng, đây là tiền đề quan trọng để các chủ thể thực hiện hoạt động tranh tụng bảo vệ quan điểm, quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng. Chỉ trên cơ sở bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ thì hoạt động tranh tụng mới đảm bảo chất lượng, tính thực thi.
Tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử
Một nội dung khác là “Tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án”. Theo đó, xác định rõ Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho những chủ thể tranh tụng là Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và hoạt động tranh tụng tiến hành trên cơ sở dân chủ, bình đẳng. Tại phiên tòa, các chủ thể tranh tụng bình đẳng với nhau trên cơ sở đưa ra quan điểm, tài liệu, chứng cứ, phân tích đánh giá để lập luận, đối đáp bảo vệ quan điểm của mình.
Để tranh tụng có hiệu quả thì một trong những điều kiện quan trọng nhất là các bên buộc tội và gỡ tội phải thực sự bình đẳng với nhau và Tòa án phải đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, bảo đảm cho hai bên thực hiện chức năng của mình. Tư tưởng bình đẳng này không chỉ được thể hiện tại phiên tòa mà còn ở các giai đoạn trước khi mở phiên tòa. Theo đó, nguyên tắc xác định trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các bên buộc tội và gỡ tội đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ và đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và Tòa án phải có trách nhiệm trong việc tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh luận dân chủ trước Tòa án.
Ngoài ra nguyên tắc tranh tụng tại Điều 26 BLTTHS còn có nội dung rất quan trọng khác đó là “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Việc tranh tụng chỉ là hình thức nếu kết quả tranh tụng không được thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án. Việc quy định bản án, quyết định của Toà án phải dựa vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng là một trong những điểm mới nổi bật trong quy định về nguyên tắc tranh tụng.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa
BLTTHS năm 2015 quy định: “Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Đây là một trong những điểm mới, tiến bộ nhất được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015. Tất cả tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án đều phải được xem xét, đánh giá, tranh luận làm rõ tại phiên tòa; bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, chấp nhận hay không chấp nhận phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định, điều này thể hiện rõ nét tính ưu việt khi kết hợp giữa mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn.
BLTTHS năm 2015 đã khẳng định quá trình tranh tụng được diễn ra trong suốt quá trình tố tụng, bắt đầu từ giai đoạn khởi tố và xuyên suốt đến giai đoạn xét xử. Theo đó, tranh tụng không chỉ tồn tại ở giai đoạn xét xử nơi mà có sự hiện diện đầy đủ của ba bên buộc tội, gỡ tội và xét xử, mà còn xuất hiện từ giai đoạn khởi tố vì để tiến hành được việc tranh tụng và tranh tụng có hiệu quả, các bên cần phải có thời gian và điều kiện cần thiết để thu thập các chứng cứ, tài liệu và các tình tiết của vụ án trước khi bước vào cuộc tranh tụng tại phiên tòa.
Chủ thể tham gia quan hệ tranh tụng bao gồm cả Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác.
Bên cạnh đó, do tranh tụng biểu hiện tập trung nhất tại phiên tòa nên nguyên tắc cũng có những điều chỉnh để quá trình tranh tụng diễn ra một cách thuận lợi nhất. Nguyên tắc xác định "tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp" để các chứng cứ của vụ án phải được thể hiện đầy đủ trước phiên tòa, làm căn cứ cho việc xét hỏi, tranh luận công khai, khách quan, toàn diện.
Nhằm bảo đảm quyền buộc tội và bào chữa của các bên, nguyên tắc cũng bảo đảm sự có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật, nếu vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật quy định. Trên cơ sở có đủ các chủ thể tranh tụng cũng như chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án, các bên sẽ tranh luận công khai tại phiên tòa để bảo vệ quan điểm của mình; Tòa án kiểm tra, đánh giá chứng cứ và dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra kết luận cuối cùng về các vấn đề có tội hay không có tội, liên quan đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, căn cứ định tội và quyết định hình phạt, xác định mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo và đây cũng chính là cơ sở để Tòa án ra bản án, quyết định cuối cùng.
Như vậy, tranh tụng được coi là khâu đột phá trong hoạt động xét xử, chất lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử, chống oan sai và bảo vệ các quyền con người cơ bản của người bị buộc tội. Đây là lần đầu tiên nguyên tắc tranh tụng được thể hiện trong BLTTHS, từ đó tranh tụng cũng đã được xuất hiện trong một loạt các quy định khác nhau của Bộ luật, với mục đích tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm quyền con người, chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án.
Với ý nghĩa là lần đầu tiên quy định tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản trong BLTTHS, cho thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước tiếp tục thực hiện tiến trình cải cách tư pháp với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.