Bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng họ không được tham gia tố tụng nên đã làm đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
Ông Đặng Xuân Thái và bà Đinh Kim Sơn, là chủ sử dụng đất ở và chủ sở hữu nhà ở trên diện tích 60,9m2 tại địa chỉ số 22A, phố Thái Thịnh, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, Hà Nội, theo Bản án số 11/PTLH ngày 27/01/1994 của TAND TP. Hà Nội.
Ngày 29/09/2003, ông Thái bà Sơn được UBND quận Đống Đa cấp Giấy phép xây dựng cải tạo nhà 01 tầng thành nhà ở 03 tầng mới tại địa chỉ trên. Tại Biên bản xác minh nguồn gốc sử dụng đất ở ngày 05/05/2008 của UBND phường Ngã Tư Sở nhận định: “Ông Thái bà Sơn đã ly hôn nhưng theo Bản án ly hôn vẫn sử dụng chung diện tích, không phân định. Nên việc cấp Giấy chứng nhận cho 2 người đã ly hôn là không hợp lý. Kết luận: Đề nghị gia đình về họp bàn thỏa thuận thống nhất xong mới tiến hành lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận”.
Ngày 17/08/2010, để thuận tiện cho việc xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN) và vì quyền lợi của các con, ông Thái bà Sơn cùng các con là Đặng Đình Cường, Đặng Kim Dung, Đặng Thị Mai Lan, Đặng Thị Hạnh lập Biên bản họp gia đình, thống nhất để con trai cả là Đặng Đình Cường đứng tên kê khai cấp GCN, nhưng không tặng cho, hay chuyển nhượng,… cho Cường. Biên bản này có sự xác nhận của UBND phường Ngã Tư Sở và Tổ trưởng tổ dân phố 8A.
Ngày 26/10/2010, gia đình ông Thái bà Sơn được UBND quận Đống Đa cấp GCN số BD 780587, đứng tên Đặng Đình Cường.
Ngày 19/09/2012, ông Thái bà Sơn biết Cường dùng sổ đỏ thế chấp cho bạn là Chu Thị Vân vay tiền, nên đã có văn bản gửi tới ngân hàng, thông báo về quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở của những người trong gia đình và đề nghị ngân hàng dừng mọi giao dịch liên quan (cán bộ ngân hàng Trần Thị Huyền xác nhận nhận đơn ngày 24/09/2012). Do đó, Cường đã phải cam kết tìm nguồn tiền khác để trả cho ngân hàng thay người vay và cam kết trả lại nhà đất nên ông Thái bà Sơn hoàn toàn yên tâm, không có ý kiến gì nữa.
Khi nhận được Thông báo thụ lý Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan số 1536/TB-TLVA ngày 22/10/2013 của TAND quận Đống Đa, ông Thái bà Sơn và những người con khác của ông bà là những người có tên trong Thông báo đã có văn bản gửi đến Tòa án Đống Đa, khẳng định Đặng Đình Cường chỉ là người thay mặt gia đình đứng tên kê khai làm GCN quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho thuận tiện vì gia đình có hoàn cảnh đặc biệt (vợ chồng ly hôn nhưng vẫn chung tài sản), trong đó có trình bày việc khi biết được Cường dùng sổ đỏ bảo lãnh khoản vay cho bạn, gia đình đã gửi thông báo cho ngân hàng và đề nghị UBND quận Đống Đa thay đổi người đứng tên trong sổ đỏ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, TAND quận Đống Đa không triệu tập hay lấy lời khai của ông Thái bà Sơn và những người con khác trong gia đình một lần nào. Ngày 23/04/2014, TAND quận Đống Đa đã ra Bản án số 02/2014/DS-ST, quyết định: “Trường hợp bà Chu Thị Vân vi phạm nghĩa vụ thanh toán, Ngân hàng GBBank có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 175, tờ bản đồ số 6G-III-18, diện tích 60,9m2 tại địa chỉ số 22A, phố Thái Thịnh, phường Ngã Tư Sở, quận Đống Đa, Hà Nội.”
Bản án số 02/2014/DS-ST ngày 23/4/2014 của TAND quận Đống Đa đã quyết định về tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Thái, bà Sơn và các con, nhưng lại cho rằng: “những người trên đều không ăn ở sinh hoạt thường xuyên tại số 22A phố Thái Thịnh… Do vậy, thấy không cần thiết phải đưa ông Thái, bà Sơn, chị Dung, chị Hạnh, chị Lan tham gia vụ án với tư cách là người liên quan nữa”.
Tuy nhiên, ông Thái, bà Sơn và các con cho rằng, trên thực tế, những người này vẫn có quyền lợi, vẫn trực tiếp sinh sống, quản lý, sử dụng nhà đất trên, mặc dù có người đã đăng ký hộ khẩu nơi khác.
Mặt khác, chính Bản án số 02/2014/DS-ST ngày 23/04/2014 của TAND quận Đống Đa ghi rằng: “Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhận được các yêu cầu của ông Đặng Xuân Thái, bà Đinh Kim Sơn, chị Đặng Thị Hiếu Hạnh, chị Đặng Thị Mai Lan, chị Đặng Thị Kim Dung, cho rằng ông Cường chỉ thay mặt gia đình đứng tên kê khai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho mọi người trong gia đình”, nhưng Tòa án lại không đưa họ vào tư cách Người liên quan vụ án trong bản án.
Trong đơn gửi tòa, ông Thái bà Sơn và những người con khác đã nêu rõ việc gia đình đã có văn bản gửi đến GPBank, UBND Đống Đa, nhưng Tòa Đống Đa lại chỉ xác minh tại Phòng tài nguyên môi trường quận Đống Đa vào thời điểm từ 2012 đến ngày xét xử, rồi kết luận là không nhận được đơn thư.
Bản án số 02/2014/DS-ST ngày 23/04/2014 của TAND quận Đống Đa đã bác bỏ tư cách của những Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bằng câu: “Phía ngân hàng xác nhận không nhận được bất kỳ đơn thư nào của gia đình ông Cường về vấn đề này nên yêu cầu của ông Thái, bà Sơn, chị Hạnh, chị Dung, chị Lan không được giải quyết trong vụ án này”. Theo ông Thái bà Sơn và những người con, việc xác nhận như vậy của ngân hàng là không trung thực.
Chính vì không được tham gia tố tụng với tư cách Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên ông Thái bà Sơn và những người con khác không được biết về sự tồn tại của Bản án số 02/2014/DS-ST ngày 23/4/2014, không thực hiện được quyền kháng cáo của mình và không biết đến việc Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa đã ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 16 DS/QĐ-CCTHA ngày 21/10/2014 và Quyết định thi hành án chủ động số 17 DS/QĐ-CCTHA ngày 21/10/2014, cho đến khi anh Đặng Đình Cường đến TAND quận Đống Đa hỏi về tiến trình giải quyết vụ án đã đến đâu rồi.
Với những nhận định trên, ông Thái bà Sơn và các con đã làm đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm Bản án số 02/2014/DS-ST ngày 23/4/2014 của TAND quận Đống Đa đã có hiệu lực pháp luật.
Theo Luật sư Nguyễn Thị Mỹ Hà - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội: Nếu việc đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm của ông Thái bà Sơn và những người liên quan trong vụ án này không được TAND Thành phố Hà Nội xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm thì họ còn có thể áp dụng Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS như sau: Tại Điều 5. Về quy định tại khoản 10 Điều 25 và khoản 7 Điều 26 của BLTTDS 1. Đối với tài sản bị cưỡng chế để thi hành án nhưng có tranh chấp về quyền sở hữu thì đương sự, người có tranh chấp (quy định tại Điều 75 của Luật Thi hành án dân sự) có quyền khởi kiện vụ án tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án quy định tại khoản 10 Điều 25 BLTTDS để yêu cầu Tòa án xác định phần sở hữu, phân chia tài sản chung. |