Ngày 25 và 26/11, TANDTC phối hợp với Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản tổ chức Hội thảo về án lệ của Nhật Bản để tìm hiểu sâu hơn về hệ thống án lệ của quốc gia này và đưa ra những kiến nghị liên quan đến công tác xây dựng, áp dụng án lệ của Việt Nam.
Tham gia Hội thảo có Giáo sư Murakami, ông Sakai Naoki (là các chuyên gia luật pháp cao cấp Nhật Bản); đại diện Tòa án tối cao, Bộ Tư pháp Nhật Bản; lãnh đạo các đơn vị thuộc TANDTC và các Thẩm phán TAND tỉnh, thành phố trong cả nước.
Chia sẻ kinh nghiệm về hệ thống án lệ của Nhật Bản
Tại Hội thảo, Giáo sư Murakami, chuyên gia cao cấp Nhật Bản đã cung cấp cho các đại biểu hiểu rõ về án lệ của Nhật Bản. Theo đó, ở những nước áp dụng nguyên tắc luật pháp định (nguyên tắc luật thành văn) như Nhật Bản và Việt Nam thì Thẩm phán áp dụng và đưa ra phán quyết dựa trên luật do Quốc hội ban hành, Nghị định do Chính phủ (Nội các) ban hành và các pháp lệnh do cơ quan nhà nước, địa phương ban hành (các văn bản quy phạm pháp luật). Tuy nhiên, các quy định của những văn bản luật nêu trên về mặt tính chất vốn mang tính trừu tượng nên không thể tránh khỏi có khác biệt trong cách hiểu nội dung ý nghĩa. Kết quả là ngay cả trong các vụ án hoàn toàn giống nhau hoặc tương tự nhưng nếu Tòa án và Thẩm phán khác nhau thì vẫn không tránh khỏi việc đưa ra kết luận khác nhau từ việc giải thích đến áp dụng luật khác nhau và điều này trái với nguyên tắc công bằng, bình đẳng. Vì vậy, để thống nhất được việc giải thích và áp dụng luật, “án lệ” được đặt ở vị trí là phán quyết (văn bản tư pháp) của Tòa án cấp trên có thẩm quyền hơn, có những tiêu chuẩn nhất định, và việc Thẩm phán khi xử lý các vụ việc tương tự, cùng loại phải tuân theo án lệ thì gọi là “định chế án lệ”.
Tại Nhật Bản, kể từ tháng 5/1947, trên các Nhật báo đã đăng “Tuyển tập án lệ của Tòa án tối cao” và vẫn tiếp tục đăng đến hiện tại. Số vụ án được đăng trong những năm gần đây từ 50 - 70 vụ/năm. Tuyển tập án lệ của Tòa án tối cao Nhật Bản được Ủy ban án lệ (đặt trong Tòa án tối cao) tập hợp và tuyển chọn đăng căn cứ vào các vấn đề mà Hiến pháp, pháp luật quan trọng chưa có tiền lệ. Tài liệu bao gồm vấn đề pháp luật được phân chia từ các phán đoán của Tòa án cấp dưới, các sự kiện được dư luận chú ý cao, các ý kiến phản đối quan trọng của Thẩm phán, các tiền lệ có giá trị. Tuyển tập án lệ của Tòa án tối cao Nhật Bản được phát hành 1 tháng 1 lần. Các Tuyển tập án lệ có cấu trúc gồm nửa đầu là các bản án dân sự, nửa sau là các bản án hình sự.
Quang cảnh Hội thảo
Khi tìm hiểu án lệ ở các vụ án thực tiễn, ở phần đầu thường ghi các thông tin mang tính hình thức như tên bản án, số hiệu bản án, các bên đương sự, tên Tòa án, ngày xét xử ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Phần tiếp theo của án lệ là các khoản “nội dung xét xử" và “tóm lược bản án”. Tiếp theo các phần trên, điều khoản tham chiếu được nêu rõ, sau đó toàn văn bản án, quyết định sẽ được ghi lại. Trong các phần nêu trên thì các khoản “nội dung xét xử” và “tóm lược bản án” là phần rất quan trọng để xác định giá trị hiệu lực cũng như phạm vi áp dụng của án lệ. Tùy theo cách trình bày của các vụ án sẽ chia án lệ thành: án lệ giải thích; án lệ quy phạm; án lệ hướng dẫn.
Giáo sư Murakami cho biết: Tại Nhật Bản, trong các lĩnh vực của luật học, các nghiên cứu về án lệ đang được tích cực thực hiện và việc này đã trở thành một phần quan trọng của bộ môn “lý luận giải thích pháp luật” (nếu án lệ thay đổi thì thông thường sách pháp luật, sách giáo khoa cũng được cải biên). Các Thẩm phán đương nhiên được xem là nắm vững kỹ năng nghiên cứu án lệ, do đó hầu như không phát sinh các vấn đề thuộc dạng “Thẩm phán không biết áp dụng án lệ như thế nào cho phù hợp”. Ở Nhật Bản không thể phủ nhận là ngày càng ít các Thẩm phán “dám” đưa ra phán quyết trái với án lệ của Tòa án tối cao; định chế án lệ ngày càng phát huy công năng.
Xây dựng, ban hành và áp dụng án lệ tại Việt Nam
Trong phần thảo luận, tất cả các đại biểu tham dự đều đồng thuận cao với việc áp dụng án lệ vào xét xử. Bởi lẽ, trong quá trình cải cách tư pháp, Nghị quyết số 48-NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nêu rõ: “Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã giao cho TANDTC có nhiệm vụ: Tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ...
Cũng tại khoản 3 Điều 104 của Hiến pháp năm 2013 quy định một trong những nhiệm vụ của TANDTC đó là “TANDTC thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật”. Điều 22, khoản 2, điểm c, Luật Tổ chức TAND năm 2014 cho phép Hội đồng Thẩm phán TANDTC “Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Ngoài ra, khoản 5 Điều 27 của Luật Tổ chức TAND năm 2014 quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án TANDTC là “Chỉ đạo việc tổng kết thực tiễn xét xử, xây dựng và ban hành Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử; tổng kết phát triển án lệ, công bố án lệ. Như vậy, án lệ đã được Đảng, Nhà nước, Quốc hội giao cho TANDTC có nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng, ban hành và áp dụng án lệ vào thực tiễn xét xử. Trên cơ sở tham khảo các quy định về án lệ của một số nước trên thế giới; sau khi có ý kiến của thống nhất của các cơ quan liên quan, ngày 28/10/2015, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.
Giáo sư Murakami và các chuyên gia cao cấp Nhật Bản cho rằng, án lệ đang được xây dựng tại Việt Nam về cơ bản là do Thẩm phán Tòa án cấp dưới không có quyền giải thích văn bản quy phạm pháp luật, nên TANDTC sàng lọc, tuyển chọn, công bố án lệ từ các phán quyết, quyết định của Tòa án cấp trên để Thẩm phán khi nghị án các vụ việc tương tự sẽ phải áp dụng án lệ nhằm thống nhất cách giải thích, áp dụng văn bản luật cho Tòa án cấp dưới. Việc này không có gì khác hơn là một hình thức thực hiện quyền giám sát của TANDTC đối với Tòa án cấp dưới và án lệ có thể được xem là nguồn có tính chất tương tự văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, Giáo sư Murakami lưu ý rằng, đối với vấn đề này ở Việt Nam, chỉ các nội dung được sàng lọc tuyển chọn, công bố sau khi qua một quy trình nhất định, được ghi trong tuyển tập án lệ mới được gọi là án lệ; những văn bản tư pháp khác không được coi là án lệ. Ở đây, điều cần bàn tới là trong số “án lệ giải thích”, “án lệ quy phạm”, “án lệ hướng dẫn” (đây là sự phân biệt về mặt lý luận liên quan đến văn bản tư pháp, cả Nhật Bản và Việt Nam đều có cùng cách hiểu khái niệm) thì nội dung nào sẽ được lựa chọn mang ý nghĩa “án lệ”.
Chuyên gia Sakai Naoki bày tỏ quan điểm, án lệ ra đời sẽ góp phần giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, bảo đảm công bằng, minh bạch. Việc lập chế định án lệ ở Việt Nam là kết quả của quá trình nghiên cứu, xây dựng pháp luật, tạo ra thêm hành lang pháp lý cho Thẩm phán xem xét áp dụng trong xét xử và chắc chắn sẽ góp phần nâng cao chất lượng xét xử.
Qua 2 ngày Hội thảo để tìm hiểu về án lệ của Nhật Bản và nghe những kiến nghị liên quan đến công tác xây dựng, áp dụng án lệ của Việt Nam, TANDTC sẽ tổng hợp, nghiên cứu, tìm hiểu, học tập kinh nghiệm để đưa án lệ (sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 16/12/2015) đi vào cuộc sống; bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của việc ban hành, áp dụng án lệ trong xét xử, phù hợp với tình hình thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.