Trường hợp lễ tân khách sạn giữ giấy tờ tùy thân của khách cho đến khi trả phòng là sai quy định và có thể bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
Hỏi: Do đặc thù công việc tôi thường xuyên phải đi công tác và nghỉ tại khách sạn. Tại đây, lễ tân của khách sạn thường yêu cầu để lại Căn cước công dân (CCCD) hoặc chứng minh thư nhân dân cho đến khi trả phòng. Tôi rất lo lắng việc xuất trình giấy tờ tùy thân có nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân ra bên ngoài gây phiền toái. Xin hỏi việc các khách sạn giữ CCCD có đúng không? Pháp luật quy định như thế nào về vấn đề này?
Nguyễn Văn Tĩnh, (Hà Nam)
Trả lời: Theo quy định của luật Căn cước công dân, thẻ căn cước công dân (CCCD) là giấy tờ tùy thân, dùng để chứng minh nhân thân công dân Việt Nam và sử dụng vào những thủ tục hành chính, giao dịch dân sự. Chỉ những cơ quan thi hành lệnh tạm giữ, tạm giam; cơ quan thi hành án phạt tù, thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc, mới có thẩm quyền tạm giữ thẻ CCCD.
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 44 Nghị định 96/2016/NĐ-CP, ngày 01/7/2016 quy định điều kiện về an ninh, trật tự đối với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định các cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu trú có nghĩa vụ kiểm tra giấy tờ tùy thân của khách lưu trú, gồm một trong các loại giấy tờ sau: Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân; Hộ chiếu; Thẻ thường trú hoặc Thẻ tạm trú (đối với người nước ngoài); Các loại giấy tờ có dán ảnh do cơ quan quản lý Nhà nước Việt Nam cấp (như Giấy phép lái xe…).
Như vậy, chủ cơ sở, lễ tân khách sạn không có quyền giữ CCCD của khách qua đêm. Đối với khách thuê phòng chỉ có trách nhiệm xuất trình giấy tờ tùy thân để được kiểm tra ghi lại các thông tin cần thiết, sau đó nhân viên lễ tân phải trả lại cho khách thuê phòng.
Trường hợp lễ tân khách sạn giữ giấy tơ tùy thân của khách cho đến khi trả phòng là sai quy định và có thể sẽ bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
Cụ thể, theo khoản 2 Điều 10 Nghị định 144/2021/NĐ-CP sẽ phạt tiền 1-2 triệu đồng đối với hành vi chiếm đoạt, sử dụng chứng minh thư, thẻ CCCD hoặc Giấy xác nhận số Chứng minh nhân dân của người khác.
Theo quy định tại Điều 69 Nghị định 144/2021 của Chính phủ thẩm quyền xử phạt hành vi này thuộc về công an cấp xã.