Hội đồng Thẩm phán TANDTC: Hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 103/2015/QH13 và Nghị quyết số 104/2015/QH13 của Quốc hội

Trần Quang Huy| 14/07/2016 09:29
Theo dõi Báo điện tử Công lý trên

Ngày 30/6/2016, thay mặt Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình đã ký ban hành Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP...

Về “Hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính” nhằm áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp luật.

Đối với việc áp dụng pháp luật tố tụng dân sự (TTDS), tố tụng hành chính (TTHC) để giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính, Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP quy định: Kể từ ngày BLTTDS số 92/2015/QH13 có hiệu lực thi hành (ngày 1/7/2016), Tòa án áp dụng quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 1 Nghị quyết số 103/2015/QH13 để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 517 BLTTDS số 92/2015/QH13 thì được áp dụng từ ngày 1/1/2017. Kể từ ngày Luật TTHC số 93/2015/QH13 có hiệu lực thi hành (ngày 1/7/2016), Tòa án áp dụng quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 để giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm những vụ án hành chính, trừ các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 371 Luật TTHC số 93/2015/QH13 thì được áp dụng từ ngày 1/1/2017.

Hội đồng Thẩm phán TANDTC: Hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 103/2015/QH13 và Nghị quyết số 104/2015/QH13 của Quốc hội

Một phiên tòa hành chính

Từ ngày 1/7/2016, thẩm quyền và trình tự, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 1/7/2016 được thực hiện theo quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13 và Luật TTHC số 93/2015/QH13. Đối với những bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 1/7/2016 mà kể từ ngày 1/7/2016 người có thẩm quyền kháng nghị mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 326 và Điều 352 BLTTDS số 92/2015/QH13. Khi xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm thì việc xác định thế nào là “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” và “có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật” quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 326 BLTTDS số 92/2015/QH13 phải căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung được áp dụng tại thời điểm ra bản án, quyết định bị đề nghị kháng nghị, bị kháng nghị. Đối với những bản án, quyết định hành chính của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 1/7/2016 mà kể từ ngày 1/7/2016 người có thẩm quyền kháng nghị mới kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì căn cứ để thực hiện việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 255 và Điều 281 Luật TTHC số 93/2015/QH13. Khi xem xét việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm thì việc xác định thế nào là “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” và “có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật” quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 255 Luật TTHC số 93/2015/QH13 phải căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung được áp dụng tại thời điểm ra bản án, quyết định bị đề nghị kháng nghị, bị kháng nghị.

Kể từ ngày 1/7/2016, thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13 và Luật TTHC số 93/2015/QH13, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này. Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 215 Luật TTHC số 64/2010/QH12 mà chưa bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là 3 năm, kể từ ngày Luật TTHC số 93/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.

Việc áp dụng pháp luật về án phí để giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính theo thủ tục rút gọn, Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định: Khi giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính theo thủ tục rút gọn, Tòa án áp dụng mức tạm ứng án phí, án phí bằng 50% mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án giải quyết theo thủ tục thông thường cho đến khi có quy định mới của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về mức tạm ứng án phí, án phí áp dụng đối với vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính giải quyết theo thủ tục rút gọn.

Đối với việc áp dụng pháp luật về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính, Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP quy định: Khi thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, vụ án hành chính thì cần lưu ý đến thời điểm phát sinh tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 103/2015/QH13 là ngày khởi kiện, ngày yêu cầu. Việc xác định ngày khởi kiện, ngày yêu cầu được thực hiện theo quy định tại khoản 2, 3 và 4 Điều 190 BLTTDS số 92/2015/QH13. Thời điểm phát sinh vụ án hành chính quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 104/2015/QH13 là ngày khởi kiện; việc xác định ngày khởi kiện được thực hiện theo quy định tại Điều 120 Luật TTHC số 93/2015/QH13. Quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu tại Điều 159 và điểm h khoản 1 Điều 192 BLTTDS số 24/2004/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 65/2011/QH12 được áp dụng đến hết ngày 31/12/2016 để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Từ ngày 1/1/2017, Tòa án áp dụng quy định của BLTTDS số 92/2015/QH13, BLDS số 91/2015/QH13 và luật khác có liên quan về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu để thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.

Việc áp dụng pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc hôn nhân và gia đình, nếu vụ việc hôn nhân và gia đình đã được Tòa án thụ lý trước ngày 1/7/2016 và Thẩm phán, Tòa chuyên trách đang giải quyết thì Thẩm phán, Tòa chuyên trách tiếp tục giải quyết mà không chuyển cho Tòa Gia đình và người chưa thành niên. Vụ việc hôn nhân và gia đình được Tòa án thụ lý kể từ ngày 1/7/2016 mà ở Tòa án đó đã tổ chức Tòa Gia đình và người chưa thành niên thì Tòa Gia đình và người chưa thành niên có thẩm quyền giải quyết. Đối với Tòa án chưa tổ chức Tòa Gia đình và người chưa thành niên thì Chánh án Tòa án có trách nhiệm phân công Thẩm phán chuyên trách giải quyết.

Nghị quyết số 02/2016/NQ-HĐTP, ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/8/2016.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Hội đồng Thẩm phán TANDTC: Hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 103/2015/QH13 và Nghị quyết số 104/2015/QH13 của Quốc hội